KỸ NĂNG LÃNH ĐẠO TỔ CHỨC HỌC TẬP

[ad_1]

KHÁI NIỆM

 Tổ chức học tập (learning organization) là một công ty mà các thành viên của nó không ngừng học hỏi từ mọi thứ họ làm. Kiến thức mới liên tục được tiếp thu, chia sẻ và áp dụng giữa các thành viên tổ chức trong quá trình ra quyết định và làm việc. 

Theo Peter Senge về một tổ chức học tập là “Các tổ chức, nơi mọi người liên tục mở rộng khả năng của họ để tạo ra kết quả mà họ thực sự khao khát, nơi các kiểu tư duy mới và mở rộng được nuôi dưỡng, nơi mà khát vọng tập thể được giải phóng, và tất cả mọi người không ngừng cùng nhau học hỏi.”

Một tổ chức học tập là tổ chức tìm kiếm để kiến tạo chính tương lai của nó; ở đó, nó giả định rằng có một tiến trình sáng tạo đang diễn ra cho những thành viên của nó; và nó phát triển, thích nghi, và chuyển hóa chính mình trong sự đáp trả với những nhu cầu và khát vọng của những người cả bên trong và bên ngoài tổ chức (Navran Associates Newsletter 1993). Các tổ chức học tập thúc đẩy một môi trường nơi người ta có thể “tạo ra những kết quả mà họ thực lòng muốn có”, và nơi họ có thể học cách học cùng nhau vì sự tốt đẹp cho toàn thể (Rheem 1995, 10). Tất cả chúng ta cần thiết khai thác nguồn lực kiến thức để mang đến cho chính chúng ta “khả năng suy nghĩ phản tư và sáng tạo, khả năng giao tiếp các ý tưởng và ý niệm, và khả năng hợp tác với những cá thể người trong tiến trình tìm hiểu và hành động (Navran Associates Newsletter 1993).

 

Nền tảng hình thành cơ bản cho những tổ chức như vậy là trong các tình huống thay đổi nhanh chóng, chỉ những người linh hoạt, thích nghi và năng suất mới có thể duy trì và phát triển vượt trội. Để điều này xảy ra, người ta cho rằng, các tổ chức cần phải “khám phá cách khai thác cam kết và khả năng học hỏi của mọi người ở mọi cấp độ”.

Trong khi mọi cá nhân đều có khả năng học hỏi, thì các mô hình, cấu trúc mà họ phải hoạt động, làm việc thường không tạo điều kiện tốt nhất cho sự phản hồi và tham gia. Hơn nữa, đa số thành viên trong các tổ chức thiếu các công cụ, ý tưởng, hướng dẫn để hiểu và xử lý tình huống gặp phải. Những tổ chức khao khát liên tục mở rộng năng lực để tạo ra tương lai của chính mình đòi hỏi một sự thay đổi cơ bản giữa các thành viên.

 

TẦM QUAN TRỌNG CỦA TỔ CHỨC HỌC TẬP

Môi trường kinh doanh hiện đại ngày càng khắc nghiệt và không ngừng đặt ra các yêu cầu mới cho doanh nghiệp. Lời giải của bài toán cạnh tranh này không gì khác ngoài việc trang bị sẵn tốc độ nhanh nhẹn, khả năng linh hoạt để sẵn sàng đáp ứng với các xu hướng mới, thậm chí là trở thành nhà tiên phong. Để có thể tồn tại và đáp ứng tốt nhất các yêu cầu đó, các doanh nghiệp đang ngày càng ưu tiên đào tạo – tổ chức học tập và coi đó như một yếu tố văn hoá cốt lõi. Văn hoá học tập (learning culture) xuất hiện và được coi trọng trong doanh nghiệp là vì vậy.

Có thể liệt kê một số lợi ích dễ thấy nhất ở một doanh nghiệp đề cao văn hoá học tập:

  • Nhân viên được trang bị kiến thức và kỹ năng có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu suất làm việc và lợi nhuận của công ty.
  • Khai phá được tài năng tiềm ẩn của nhân viên, từ đó có chính sách dụng tài phù hợp
  • Tăng tính đoàn kết, chia sẻ nội bộ và độ hài lòng của nhân viên.
  • Tăng độ linh hoạt và khả năng thích ứng của công ty trước sự thay đổi của xu hướng, thị trường và các tác động khác.
  • Công ty có tiềm năng đổi mới sản phẩm, cải thiện việc cung cấp dịch vụ hoặc thâm nhập vào một thị trường mới.
  • Là một yếu tố quan trọng của EVP doanh nghiệp giúp thu hút ứng viên tuyển dụng.

Cổ vũ văn hoá học tập trong một tổ chức không phải là việc có thể làm trong ngày một ngày hai mà là một quá trình bền vững theo chiến lược, đòi hỏi cái tâm và sự kiên trì của nhà lãnh đạo. Thật may mắn là bạn có thể hiện thực hoá điều đó nhờ các bí quyết trong cuốn sách Tổ chức học tập

CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA TỔ CHỨC HỌC TẬP

Khi bạn hỏi bất kỳ ai về những gì hoàn hảo nhất trong một tập thể gắn bó, điều nổi bật nhất có lẽ là ý nghĩa của trải nghiệm. Mọi người sẽ nói về việc trở thành một phần của một cái gì đó lớn hơn chính họ, về sự kết nối, rộng lượng. Đối với nhiều người, trải nghiệm của họ trong tổ chức là thứ thực sự tuyệt vời và nổi bật nhất. Nó giống như những giai đoạn hiếm hoi trong cuộc đời mà con người được sống hết mình. Một số người thậm chí dành phần còn lại của cuộc đời để tìm cách làm sống lại tinh thần đó. 

Đối với Peter Senge, học tập thực sự đi vào trái tim của con người. Nhờ đó, chúng ta có thể tự làm mới bản thân. Điều này áp dụng cho cả cá nhân và tổ chức. Học để tồn tại và phát triển. Học tập để thích nghi với môi trường và cuộc sống không ngừng biến đổi. Học tập rất quan trọng và thực sự cần thiết. Trong một tổ chức học tập, việc học tập phải được nuôi dưỡng, kéo dài qua từng thế hệ thành viên, để không ngừng nâng cao năng lực và tạo nên những thành tựu tuyệt vời.

Mọi thành viên tích cực xác định và giải quyết các vấn đề liên quan đến công việc để có thể hoàn thành các mục tiêu của cá nhân và tổ chức. Trong tổ chức học tập, mọi thành viên có thể tạo ra kết quả mà họ thực sự mong muốn, thông qua việc tăng cường sáng tạo cá nhân, đánh giá cao những cách suy nghĩ mới, nỗ lực hợp tác và tầm nhìn chung.

Ý tưởng về tổ chức học tập trở nên phổ biến chủ yếu nhờ cuốn sách “Nguyên lí thứ 5” của Peter Senge, được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1990.

Description: http://odclick.com/wp-content/uploads/2018/05/t%E1%BB%95-ch%E1%BB%A9c-h%E1%BB%8Dc-t%E1%BA%ADp.jpg

Peter Senge cho rằng 5 đặc điểm của một tổ chức học tập bao gồm: 

(1)Tư duy hệ thống (Systematic thinking)

          Khả năng nhìn thấy bức tranh lớn, và phân biệt được các hình mẫu thay vì thay đổi có tính trừu tượng như là những sự kiện đơn lẻ. Tư duy hệ thống cần đến bốn quy tắc khác để sự nhìn nhận về tổ chức học tập được kích hoạt. Ở đó cần có sự chuyển đổi hình mẫu từ không kết nối đến liên kết thành một tổng thể, và từ chuyện đổ lỗi cho vấn đề lên những yếu tố bên ngoài sang nhận ra cách chúng ta vận hành, hành động có thể đã gây ra vấn đề đó.

         Tư duy hệ thống là điểm quan trọng nhất trong học thuyết “Tổ chức học tập” của Peter Senge. Tư duy hệ thống là nguyên lý có vai trò kết nối tất cả các nguyên lý còn lại của tổ chức học tập bao gồm làm chủ bản thân, tầm nhìn chia sẻ, học tập theo tổ đội và mô hình tư duy. Đó là cách suy nghĩ, ngôn ngữ sử dụng để mô tả và cảm nhận về các lực lượng hay các mối quan hệ tạo nên các hành vi trong hệ thống tổ chức.

        Tư duy hệ thống giúp cán bộ quản lý cũng như nhân viên tìm hiểu cách thức thay đổi hệ thống hiệu quả hơn và hành động phù hợp với các quy trình rộng lớn hơn của bối cảnh kinh tế và tự nhiên bên ngoài hệ thống.

         Tư duy hệ thống giúp mỗi nhân viên vận dụng cách tiếp cận hệ thống khi ra quyết định thay vì chỉ tập trung vào một khía cạnh hay vấn đề của riêng họ.

 (2)Làm chủ bản thân (Personal Mastery)

          Tổ chức học tập chủ yếu thông qua quá trình học tập của các cá nhân trong tổ chức, tuy nhiên học tập cá nhân không đảm bảo tạo ra một “tổ chức học tập”. Làm chủ bản thân là nguyên lý theo đó các cá nhân không ngừng xác định và xây dựng tầm nhìn cho mình, tập trung năng lượng của mình, phát triển tính kiên nhẫn và quan sát thực tế một cách khách quan. Sự làm chủ này (mastery) vượt lên trên năng lực và kỹ năng cá nhân mặc dù đã bao hàm những yếu tố này. Các cá nhân có mức độ làm chủ bản thân cao luôn học hỏi không ngừng, và biết rõ những điểm chưa hoàn thiện của mình, biết rõ sự “ngu dốt” của mình và cần phải hoàn thiện những gì.

           Khởi đầu “bằng việc trở nên cam kết với học tập suốt đời”, và nó như một trụ cột tâm linh của tổ chức học tập. Am hiểu bản thân liên quan đến việc trở nên thực tế, tập trung vào việc trở thành con người tốt nhất có thể, và nỗ lực để cam kết và hứng thú với nghề nghiệp để có thể tạo điều kiện cho việc nhận ra những tiềm năng ở chính mình.

 

(3)Mô hình tư duy (Mental models)

         Mô hình tư duy là các giả thiết, sự khái quát, định kiến, và cả các hình ảnh đã ăn sâu vào cách suy nghĩ của các cá nhân và ảnh hưởng đến cách mà cá nhân đó nhìn nhận về thế giới xung quanh và hành động. Trong tổ chức học tập, mỗi cá nhân không ngừng xác định, làm rõ và hoàn thiện cách mà họ nhìn nhận về thế giới xung quanh.

        Tiến trình bắt đầu với việc phản tư ; khai quật đến tận cùng những cấu trúc niềm tin cố hữu và khái quát hóa chúng, và hiểu cách chúng ảnh hưởng lên cách mà chúng ta vận hành cuộc sống của mình. Cho tới khi có sự nhận ra và sự tập trung vào sự cởi mở, nếu không thay đổi thực sự sẽ không bao giờ xảy ra.

 (4)Chia sẻ tầm nhìn (Share vision)

         Tầm nhìn không thể bị ra lệnh vì nó luôn bắt đầu với những tầm nhìn cá nhân của từng nhân viên, những người có thể không đồng tình với tầm nhìn của nhà lãnh đạo. Điều cần là một tầm nhìn đích thực, tầm nhìn có thể khuyến gợi cam kết cho dù ở thời điểm phát triển hay đi xuống, và nó có sức mạnh gắn kết tổ chức lại với nhau. Như Peter Senge khẳng định “xây dựng tầm nhìn cho thúc đẩy sự cam kết dài lâu.”

         Các cá nhân thiết lập sự cam kết với đội/nhóm làm việc của mình, cùng xây dựng/chia sẻ tầm nhìn chung về tương lai của tổ chức, và phát triển các nguyên tắc và hoạt động hỗ trợ cho quá trình dẫn đến tương lai đó.

(5)Đội nhóm học tập (Team learning)

           Điều này quan trọng vì những tổ chức hiện đại vận hành dựa trên làm việc nhóm, có nghĩa là những tổ chức không thể học tập nếu các thành viên trong nó không đến với nhau và học tập cùng nhau. Đây là quá trình phát triển năng lực đồng kiến tạo kết quả mong muốn; năng lực có được mục tiêu chung và làm việc cùng nhau để cùng đạt mục tiêu đó. Khả năng và kỹ năng tư duy cho phép các tổ/đội xây dựng trí tuệ, năng lực của tổ/đội lớn hơn năng lực của các cá nhân trong tổ/đội cộng lại.

 

TỔ CHỨC HỌC TẬP VÀ  LỢI ÍCH VIỆC TỔ CHỨC HỌC TẬP

Tổ chức học tập

  Học tập là chìa khóa của thành công, trong nhiều trường hợp có thể nói đó là yếu tố sống còn của bất cứ tổ chức nào, đặc biệt trong bối cảnh có nhiều thay đổi và phức tạp như hiện nay. Thông qua học tập, năng lực làm việc của mỗi cá nhân trong tổ chức sẽ được cải thiện. Kiến thức và kỹ năng liên tục được bổ sung và trang bị từ quá trình học tập ở cả bên trong và bên ngoài tổ chức sẽ giúp các cá nhân làm việc tốt hơn. Học tập cũng giúp cho mỗi cá nhân có thêm động lực làm việc, có khả năng thích ứng cao với những thay đổi… Tất cả những yếu tố này giúp cho tổ chức đạt được mục tiêu đề ra một cách dễ dàng hơn.

 

– Tổ chức học tập là tổ chức nơi con người liên tục học và học cùng nhau để đạt được kết quả mong muốn. Tổ chức học tập là tổ chức hỗ trợ quá trình học tập của tất cả các thành viên trong tổ chức và liên tục làm cho tổ chức có những chuyển đổi.

– Tổ chức học tập là một mô hình thay đổi mang tính chiến lược, ở đó tất cả mọi người đều tham gia vào xác định và giải quyết vấn đề để tổ chức liên tục thay đổi, trải nghiệm và tiến bộ, nhờ đó gia tăng khả năng của tổ chức và phát triển đạt được mục tiêu đề ra.

– Học tập được coi là cơ sở để tạo ra thay đổi trong tổ chức.  Người làm việc trong tổ chức liên tục tìm kiếm những cách làm mới và tốt hơn để có thể thay đổi và gia tăng kết quả thực thi công việc.

Lợi ích việc tổ chức học tập

– Tổ chức học tập khuyến khích các thành viên cải thiện kỹ năng của cá nhân, thông qua đó có thể học tập và phát triển. Thông qua sự chia sẻ kiến thức giữa các thành viên trong tổ chức sẽ giúp bản thân mỗi người có kiến thức và kỹ năng tốt hơn để hoàn thành công việc của mình, qua đó giúp tổ chức đạt được mục tiêu dễ dàng hơn.

– Tổ chức học tập giúp các cá nhân trong tổ chức có động lực làm việc tốt hơn. Thông qua việc ý thức hơn về vai trò và tầm quan trọng của bản thân trong tổ chức, mỗi cá nhân sẽ có động lực làm việc hơn. Điều này tạo cơ hội cho tư duy sáng tạo được phát triển trong tổ chức, từ đó giúp đề ra nhiều giải pháp hiệu quả để giải quyết tốt các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn hoạt động của tổ chức.

– Tổ chức học tập tạo cơ hội cho người lao động học tập và có được những kiến thức, kỹ năng vượt ra khỏi yêu cầu cụ thể của một công việc. Họ không chỉ học được những kiến thức, kỹ năng gắn liền với vị trí công việc đảm nhận mà còn có thể học và tiếp nhận được những kiến thức, kỹ năng gắn liền với các loại công việc khác trong tổ chức.

– Trong tổ chức học tập có nhiều cơ hội để sáng tạo và thực hiện những ý tưởng sáng tạo đó. Những đóng góp sáng tạo của người lao động được ghi nhận và ủng hộ. Học tập đòi hỏi phải có các kỹ năng giao tiếp và tương tác giữa các cá nhân. Một tổ chức học tập sẽ tạo điều kiện để các thành viên có được các kỹ năng này, nhờ đó các hoạt động của nhóm hay tập thể sẽ hiệu quả hơn

– Trong tổ chức học tập, người quản lý đóng vai trò là nhà huấn luyện, định hướng, hướng dẫn và chia sẻ kinh nghiệm với người lao động. Điều này cho phép xoá bớt đi khoảng cách thứ bậc, tạo cơ hội để nhà quản lý và người lao động hiểu nhau hơn; quá trình giao tiếp giữa cấp trên và cấp dưới diễn ra thuận lợi hơn, cởi mở hơn nên thông tin được trao đổi nhiều hơn. Điều này đem đến sự gắn kết tốt hơn giữa các bộ phận, đơn vị và cá nhân trong tổ chức. Tổ chức học tập tạo cơ hội để thay đổi không chỉ về chất lượng công việc mà còn ở thái độ, tinh thần phục vụ, tính chuyên nghiệp trong công việc, qua đó hình ảnh và uy tín của tổ chức sẽ cao hơn.

CÁC CẤP ĐỘ HỌC TẬP CỦA MỘT TỔ CHỨC

 

CẤP ĐỘ 1: Ở cấp độ này, việc học mang tính ứng phó. Các bài học sẽ được tổng kết sau mỗi dự án. Các bài học, các kiến thức được lưu trữ ở đâu đó trong tổ chức và người học cần phải chủ động tìm kiến trong cơ sở tri thức (knowledge base) của tổ chức mình.

CẤP ĐỘ 2:Tổ chức ở cấp độ 2 đã tăng cường một quá trình nâng cao nhằm tích hợp các quá trình học tập, thu thập kiến thức ở cấp độ các dự án. Nghĩa là trong dự án buộc phải có tiến trình thu thập, phân loại, tổng kết bài học và công việc này được thiết lập thành những quy tắc thường nhật (routine). Nếu bạn muốn Tổ chức của mình tiến triển phù hợp với xu hướng của nền kinh tế tri thức thì nên thiết lập muc tiêu phấn đấu ở cấp độ 2 trở lên.

CẤP ĐỘ 3: Là cấp độ mà tổ chức tự tìm kiếm một cách tích cực các bài học “proactively hunt lessons”. Tổ chức phát hiện những vẫn đề đang tồn tại và thiết lập hoặc tìm kiếm những dự án nhằm bồi đắp hay trang bị những kiến thức mà tổ chức bị thiếu hụt (Projects are given learning objectives).

TRI THỨC ĐỂ LÃNH ĐẠO HỌC TẬP

          Tri thức là sự pha trộn linh hoạt của kinh nghiệm, các giá trị, thông tin gắn với bối cảnh và các tri thức chuyên gia, cung cấp khuôn khổ cho đánh giá, tích hợp những kinh nghiệm và thông tin mới. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo, bên cạnh nguồn tri thức kinh nghiệm, rất cần hệ thống tri thức khoa học và tri thức này được tạo ra một phần từ quá trình nghiên cứu, đào tạo.

          Việc ứng dụng tri thức trong lãnh đạo  đóng vai trò quan trọng trong cung cấp đầu vào giúp luận chứng, định hướng, điều chỉnh chính sách và hiện thực hóa đường lối, chính sách. Sự ứng dụng này đạt đến hiệu quả hay nghệ thuật, được thể hiện như sau:

Một là, lãnh đạo vượt qua được các tình huống cam go, khủng hoảng, xoay chuyển được tình thế vào những thời điểm bước ngoặt, để tạo ra cái “thế”. Tri thức đóng vai trò quan trọng trong năng lực ra quyết định một cách có bản lĩnh, quyết đoán trên cơ sở những quan sát, trải nghiệm có suy ngẫm và tiếp nhận các luồng tham vấn kết hợp được độc lập tư duy với tư duy tập thể.

Hai là, lãnh đạo tạo nên tính tự giác và tự chịu trách nhiệm, cảm hứng, nhiệt huyết, đam mê ở người khác, để tạo ra “niềm tin”. Tri thức đóng vai trò quan trọng trong việc tìm kiếm, chia sẻ và hiện thực hóa tầm nhìn lãnh đạo như là một cơ sở quan trọng để truyền cảm hứng giúp người khác hành động với một niềm tin về tương lai tốt đẹp hơn. Vận dụng tri thức, người lãnh đạo đồng hành, khơi gợi, đặt câu hỏi để giúp người khác tự tìm thấy lý do, ý nghĩa, giá trị các nỗ lực của bản thân, của việc chấp nhận các thách thức hay của việc tìm cách vượt qua bản thân và bối cảnh.

Ba là, lãnh đạo được thừa nhận, làm người khác không chỉ thấy mà còn hành động ủng hộ và “theo”. Do đó, tri thức nói chung và về lãnh đạo nói riêng giúp chúng ta nhận ra rằng, một nhóm người ủng hộ có thể đơn thuần vì lợi ích cá nhân của họ, vì các lợi ích hữu hình, ngay lập tức, nhưng họ cũng đủ thông thái để nhận ra đúng – sai, phải – trái.

Bốn là, lãnh đạo thành công là khi người ta thậm chí không biết là lãnh đạo ở đó, đã lẫn vào trong sự hài hòa chung. Tri thức giúp quá trình lãnh đạo phải tạo ra được sự chia sẻ, chuyển hóa, chia sẻ nhuần nhuyễn giữa trách nhiệm, công trạng, cơ hội hay sự gánh vác của các bên, chứ không chỉ là một phía lãnh đạo.

          Lãnh đạo, với các đặc trưng và giá trị then chốt độc đáo nhằm tạo ra công thiện, cũng cần một hệ thống các nỗ lực đặc thù để kiến tạo tri thức, như: xây dựng nền kinh tế tri thức và xây dựng xã hội học tập; đổi mới chính sách khoa học và công nghệ, chính sách đổi mới và hệ thống đổi mới quốc gia; đổi mới quá trình chính sách công (hình thành các nhóm think-tank cho quá trình chính sách của ngành, của địa phương nhằm nâng cao chất lượng tham mưu lãnh đạo); cải thiện chất lượng giáo dục – đào tạo (trong đó có đào tạo, bồi dưỡng, quản lý lãnh đạo quản lý); nuôi dưỡng và phát triển đội ngũ lãnh đạo có tinh thần học hỏi, năng lực nuôi dưỡng, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo; thiết kế, xây dựng và thay đổi văn hóa tổ chức thành các tổ chức có tính học hỏi; đầu tư phát triển công nghệ thông tin và truyền thông.

           Chính vì vậy, nhà tư tưởng hàng đầu trong lĩnh vực kinh doanh Peter Drucker từng nhận định “Phải đưa tri thức thành trung tâm của học thuyết mới về việc tạo ra sự thịnh vượng. Việc học hỏi, tạo dựng tri thức và biến chúng thành lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp đang là yêu cầu cấp thiết của các doanh nghiệp trong thời đại của tri thức hiện nay. Năng lực quản trị hiệu quả việc tạo sinh và quản lí và sử dụng tài sản tri thức đang trở thành một yêu cầu cấp thiết đối với các nhà lãnh đạo hiện đại.”

 

           Người lãnh đạo được coi là người xây dựng tổ chức học tập, trước hết phải tạo quá trình tương tác giữa người lãnh đạo và dưới quyền, nơi quá trình học tập diễn ra. Người lãnh đạo thách thức mọi người bằng yêu cầu thực thi công việc với tri thức mới, cách thức mới hiệu quả hơn trong quá trình lao động sang tạo. Người lao động phải học tập đáp ứng yêu cầu công việc với tri thức mới hiệu quả hơn trong quá trình sáng tạo. Lãnh đạo đổi mới cũng có vai trò tạo động lực cho việc hình thành và phát triển tổ chức học tập

Lãnh đạo như là quá trình giáo dục còn thể hiện theo nghĩa tạo ra, tăng cường và áp dụng tri thức trong tổ chức (Evers, 1987). Theo nghĩa này, người lãnh đạo  là người học tập. Người lãnh đạo còn tạo cấu trúc của tổ chức  và tạo điều kiện cho mọi người học tập, trưởng thành và phát triển.

            Thông qua việc không ngừng học hỏi, bạn sẽ tích lũy được nhiều kiến thức, kinh nghiệm để theo kịp những thay đổi của thời đại, của sức ép cạnh tranh khốc liệt như hiện nay. Hơn nữa, việc này còn tạo động lực thúc đẩy mỗi nhân viên của bạn trong việc học và tự học của bản thân họ.

             Để trở thành một nhà lãnh đạo được nhân viên nể phục không phải tự nhiên có mà cần phải được liên tục học tập, trau dồi kiến thức và rèn luyện. Hãy chứng tỏ cho mọi người thấy rằng bạn không chỉ là một vị sếp có đủ năng lực mà bạn còn là một nhà lãnh đạo thu phục được lòng người.

 

LÃNH ĐẠO TỔ CHỨC HỌC TẬP VÀ SÁNG TẠO

Chất lượng của việc ra quyết định quản trị phụ thuộc cơ bản vào khả năng đáp ứng một cách sáng tạo với những cơ hội và các thách thức. Làm sao  để các nhà quản trị có thể gia tăng khả năng đưa ra các quyết định chưa được chương trình hóa – những quyết định mà cho phép họ thích nghi, điều chỉnh hoặc thậm chí là thay đổi những yếu tố trong môi trường tác nghiệp, sao cho họ có thể liên tục nâng cao thành tích của tổ chức. Câu trả lời là bằng cách khích lệ sự học tập trong tổ chức.

 

Tổ chức học tập là quá trình thông qua đó các nhà quản trị tìm cách nâng cao niềm khao khát của nhân viên và khả năng hiểu và quản lý tổ chức, và môi trường tác nghiệp của tổ chức sao cho các nhân viên có thể đưa ra quyết định giúp tổ chức không ngừng gia tăng sự hữu hiệu trong hoạt động. Một tổ chức học tập là tổ chức mà trong đó các nhà quản trị có thể làm bất cứ điều gì có thể để tối đa hóa khả năng của các cá nhân và các nhóm trong việc suy nghĩ và hành xử một cách sáng tạo từ đó tối đa hóa tiềm năng của việc học tập trong tổ chức. Trung tâm của tổ chức học tập là sự sáng tạo, khả năng của một người ra quyết định phát minh ra ý tưởng mới, đi đầu từ đó dẫn đến những phương án hành động khả thi. Khi những ý tưởng mới và hữu ích được thực hiện trong tổ chức, sự đổi mới đã diễn ra. Khích lệ sự sáng tạo của các nhà quản trị đang là mối quan tâm hàng đầu của tổ chức, chính vì thế mà các tổ chức thuê các chuyên gia bên ngoài nhằm giúp họ phát triển các chương trình để đào tạo các nhà quản trị của họ về nghệ thuật tư duy sáng tạo và giải quyết vấn đề.

Nhà quản trị làm gì để xây dựng tổ chức học tập? Lý thuyết gia về học tập là Peter Senge đã xác định 5 nguyên tắc để xây dựng tổ chức học tập:

1.Để cho học tập tổ chức diễn ra, nhà quản trị cấp cao cần cho phép mọi người trong tổ chức phát triển cái gọi là trí tuệ cá nhân. Các nhà quản trị phải trao quyền cho nhân viên và cho phép họ trải nghiệm và sáng tạo và khám phá những gì họ muốn.

2.Sau khi đã phát triển trí tuệ cá nhân, các tổ chức cần khích lệ nhân viên phát triển và sử dụng mô hình trí tuệ phức tạp – cách thức tinh vi trong suy nghĩ nhằm thách thức họ tìm ra cách thức mới và tốt hơn trong thực hiện một nhiệm vụ – làm sâu thêm hiểu biết của họ về những điều liên quan đến một hoạt động cụ thể. Ở đây Senge lập luận rằng các nhà quản trị phải khích lệ nhân viên phát triển sự ưa thích trải nghiệm và chấp nhận rủi ro.

 

3.Các nhà quản trị phải làm mọi việc họ có thể làm để khuyến khích sự sáng tạo nhóm. Senge nghĩ việc học tập trong nhóm (học tập diễn ra trong một nhóm hay đội) sẽ quan trọng hơn là việc học tập của cá nhân trong việc xây dựng tổ chức học tập. Ông chỉ ra rằng hầu hết những quyết định quan trọng được đưa ra trong những đơn vị nhỏ như nhóm, bộ phận chức năng hay đơn vị kinh doanh.

 

4.Các nhà quản trị phải nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng một tầm nhìn chung – một mô hình trí tuệ chung mà tất cả các thành viên trong tổ chức cùng sử dụng để giải quyết các vấn đề hay các cơ hội.

 

5.Các nhà quản trị khích lệ cho việc tư duy có hệ thống. Senge nhấn mạnh rằng để xây dựng một tổ chức học tập, các nhà quản trị phải nhận ra ảnh hưởng của một cấp học tập lên các cấp khác. Ví dụ, có rất ít khả năng xây dựng nhóm để tạo thuận lợi cho nhóm học tập nếu nhà quản trị không thực hiện các bước để trao cho nhân viên sự tự do trong phát triển trí tuệ cá nhân.

 

Xây dựng một tổ chức học tập đòi hỏi các nhà quản trị thay đổi những giả định quản trị một cách triệt để. Phát triển một tổ chức học tập không phải là một quá trình nhanh chóng và dễ dàng. Senge đã từng làm việc cho công ty Ford để giúp các nhà quản trị làm cho Ford trở thành một tổ chức học tập. Tại sao Ford muốn điều đó? Các nhà quản trị cấp cao tại đây tin rằng để cạnh tranh thành công, Ford phải cải thiện khả năng của các thành viên để trở nên sáng tạo hơn và đưa ra những quyết định đúng.

 

Các nhà quản trị ngày nay đang được kêu gọi tham gia vào tổ chức học tập toàn cầu. Ví dụ như các nhà quản trị ở Wal- Mart sử dụng những bài học có được từ những sai lầm và những thành công trong một quốc gia để đẩy mạnh tổ chức học tập toàn cầu đến nhiều quốc gia khác nơi nó hoạt động. Chẳng hạn như, khi Wal-Mart vào thị trường Malaysia, nó thuyết phục khách hàng rằng sẽ đáp ứng khách hàng bằng loại cửa hàng một cửa. Tuy nhiên, nó nhận thấy rằng người Malaysia thích trải nghiệm xã hội khi mua hàng trong một cái chợ sống động hay các tiệm tạp hóa chứ không thích kiểu cửa hàng của Wal-Mart. Cuối cùng, Wal-Mart đã học được về tầm quan trọng của việc thiết kế cửa hàng để có thể thu hút khách hàng ở mỗi quốc gia khác nhau.

Khi mua lại và điều hành một chuỗi cửa hàng ở quốc gia khác, như chuỗi ASDA ở Anh, Wal-Mart cố gắng giữ lại những giá trị trong thị trường địa phương trong khi tận dụng những lợi thế của tất cả những gì trong tổ chức học tập của nó. Wal-Mart đã cải thiện kỹ thuật thông tin sử dụng cho quản lý tồn kho và kiểm soát bán hàng trong cửa hàng và đưa ASDA vào hoạt động mua sắm toàn cầu của Wal-Mart, làm cho chuỗi cửa hàng này chỉ phải trả với giá thấp hơn khi mua sản phẩm, bán chúng với giá thấp hơn và doanh số sẽ gia tăng đáng kể. Cùng lúc đó, Wal-Mart trao quyền cho các nhà quản trị vùng của ASDA điều hành cửa hàng; như chủ tịch của ASDA đã nói: “Theo cách mà nó được điều hành hàng ngày thì cũng vẫn là hình thức kinh doanh của Anh”. Rõ ràng, tổ chức học tập toàn cầu là thiết yếu cho những công ty như Wal-Mart để có được kết quả tốt trong nhiều quốc gia.

 Ở khu vực Châu Á, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan là những quốc gia đi đầu trong việc áp dụng tổ chức học tập trong cả khu vực tư nhân và khu vực công. Ví dụ, tại Singapore, Chính phủ đã thử nghiệm áp dụng tổ chức học tập vào lực lượng cảnh sát. Tại Đài Loan, Chính quyền thành phố Kaohsiung đã lọt top 20 cơ quan áp dụng tổ chức học tập tốt nhất thế giới năm 2014

Ở Việt Nam, các tập đoàn như FPT, Viettel, Vingroup hay ngân hàng Techcombank chính là những đơn vị đi đầu trong việc xây dựng tổ chức của họ thực sự trở thành môt tổ chức học tập.

  Theo Peter Senge

Biên dịch từ Gareth R. Jones and Jennifer M.George, Essential of Contemporary Management (4e,2010), McGraw-Hill Irwin, p.172

Tổng hợp tài liệu và tham khảo  INTERNET.

https://www.facebook.com/phanhieutcmiendong

http://aitech.edu.vn/

http://hocvalamsaigon.com

http://vuahocvalam.com

VIỆN CÔNG NGHỆ QUẢN TRỊ Á CHÂU – TS. NGUYỄN VĂN HÙNG

 


[ad_2]
Source link

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *