MỘT SỐ ỨNG DỤNG NGHIÊN CỨU TRỰC TUYẾN CHỦ YẾU

[ad_1]

         Theo định nghĩa về Marketing của Hiệp hội Marketing Mỹ (AMA) thì “Marketing là tiến hành các hoạt động kinh doanh có liên quan trực tiếp đến dòng vận chuyển hàng hóa và dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu dùng.

   E-marketing (Online marketing, Digital marketing hay Internet marketing), hay tiếp thị qua mạng, tiếp thị trực tuyến (Marketing trực tuyến) là hoạt động cho sản phẩm và dịch vụ thông qua mạng kết nối toàn cầu internet. Sự xuất hiện của internet đã đem lại nhiều lợi ích từ chi phí thấp để truyền tải thông tin và truyền thông (media) đến số lượng lớn đối tượng tiếp nhận, thông điệp được truyền tải dưới nhiều hình thức khác nhau, như: văn bản, hình ảnh, âm thanh, phim, trò chơi… Với bản chất tương tác của marketing trực tuyến, đối tượng nhận thông điệp có thể phản hồi ngay tức khắc hay giao tiếp trực tiếp với đối tượng gửi thông điệp. Đây là một lợi thế lớn của marketing trực tuyến  so với các loại hình khác.

Các hình thức marketing trực tuyến

Marketing trực tuyến là việc sử dụng internet làm phương tiện cho các hoạt động marketing và truyền thông. Marketing trực tuyến là việc thực thi các hoạt động quảng bá sản phẩm và dịch vụ, trong đó sử dụng các kênh phân phối trực tuyến – định hướng theo cơ sở dữ liệu – nhằm tiếp cận đến khách hàng đúng thời điểm, thích hợp, cá nhân hóa và chi phí hợp lý. Marketing trực tuyến là việc quản lý và thực hiện các hoạt động marketing, trong đó sử dụng các phương tiện điện tử, như: website, email, phương tiện không dây kết hợp với các dữ liệu số về đặc điểm và hành vi của khách hàng.

Search engine điều khiển robot đi thu thập thông tin trên mạng thông qua các siêu liên kết (hyperlink). Khi robot phát hiện ra một site mới, nó gởi tài liệu (web page) về cho server chính để tạo cơ sở dữ liệu chỉ mục phục vụ cho nhu cầu tìm kiếm thông tin.

Search Engine trên internet hay các công cụ tìm kiếm là các site đặc biệt trên web, được thiết kế để giúp mọi người tìm kiếm thông tin được lưu trên các site khác nhau.

SEM là dịch và hiểu theo nghĩa tiếng Việt là phương pháp tiếp thị thông qua các công cụ tìm kiếm. SEM là một hình thức Internet Marketing và là một phương pháp marketing nhằm tăng sự hiện diện của bạn hay doanh nghiệp, tổ chức thông qua công cụ tìm kiếm.

SEO (Search Engine Optimization): Tối ưu hóa công cụ tìm kiếm. Tối ưu hóa công cụ tìm kiếm là một tập hợp các phương pháp nhằm nâng cao thứ hạng của một website trong các trang kết quả của các công cụ tìm kiếm. Các phương pháp đó bao gồm việc tối ưu hóa website (tác động mã nguồn HTML và nội dung website) và xây dựng các liên kết đến trang để các công cụ tìm kiếm chọn lựa trang web phù hợp nhất phục vụ người tìm kiếm trên internet ứng với một từ khóa cụ thể được người dùng truy vấn.

Website là một cửa hàng ảo với hàng hoá và dịch vụ có thể được giới thiệu và rao bán trên thị trường toàn cầu. Cửa hàng đó mở cửa 24 giờ/7 ngày một tuần, trong cả 365 ngày trong năm, cho phép khách hàng của bạn tìm kiếm thông tin, xem, mua sản phẩm và dịch vụ của bạn bất cứ lúc nào họ muốn.

“Email marketing là một hình thức marketing trực tiếp trong đó sử dụng thư điện tử như một phương tiện giao tiếp khách hàng’’(định nghĩa của Google về Email marketing). Trong ý nghĩa rộng nhất của nó, thuật ngữ này thường được dùng để chỉ việc gửi email với mục đích tăng cường mối quan hệ của một doanh nghiệp với khách hàng mới  hiện có và xây dựng lòng tin, sự tin tưởng để khuyến khích lòng trung thành bền vững của khách hàng và tăng việc kinh doanh lặp lại.

Hiệp hội Marketing Mỹ (AMA) đã đưa ra định nghĩa về Mobile marketing theo hướng tiếp cận này như sau: “Mobile marketing là việc sử dụng các phương tiện không dây làm công cụ chuyển tải nội dung và nhận lại các phản hồi trực tiếp trong các chương trình truyền thông hỗn hợp”. Hiểu một cách đơn giản, đó là sử dụng các kênh thông tin di động làm phương tiện phục vụ cho hoạt động marketing.

Affiiliate Network

Đây là nơi trung gian giữa cộng tác viên và nhà sản xuất. Nhà sản xuất sẽ đăng sản phẩm cần quảng bá còn các cộng tác viên sẽ tìm sản phẩm mà mình muốn tham gia tiếp thị.

Affiliate Network đóng vai trò cung cấp nền tảng kỹ thuật như link quảng bá, banner, theo dõi và đánh giá hiệu quả của việc tiếp thị cũng như giải quyết tranh chấp và thanh toán hoa hồng. Một số Affiliate Network nổi tiếng trên thế giới có thể kể đến là: Amazon, Google, Clickbank

Article marketing

Article marketing hay gọi là tiếp thị thông qua các bài báo, bài viết liên quan đến ngành công nghiệp hoặc dịch vụ tương ứng. Những bài viết thường chứa tài liệu tham khảo, giới thiệu dịch vụ, thông tin liên lạc của tác giả hoặc doanh nghiệp. Những bài viết này đều chứa đựng giá trị nội dung cao, đáng tin cậy và có thể được xuất bản miễn phí. Những bài viết này phần nhiều có sự tham khảo từ các nguồn khác nhau và được đăng trên nhiều trang web khác nhau.

Blog marketing 

Blog là một hiện tượng xã hội không ngừng biến hoá. Và bản thân internet cũng thay đổi với tốc độ chóng mặt. Vì thế việc đặt ra một định nghĩa đúng đắn về blog quả là không tưởng. Blog, gọi tắt của từ weblog (tiếng Anh, “nhật ký web”), là một dạng nhật ký trực tuyến, bùng nổ từ cuối thập niên 90 của thế kỷ XX.

Các blogger (người viết blog), có thể là cá nhân hoặc nhóm, đưa thông tin lên mạng với mọi chủ đề; thông thường có liên quan tới kinh nghiệm hoặc ý kiến cá nhân, chủ yếu cung cấp thông tin đề cập tới những chủ đề chọn lọc, không giống như các báo truyền thống. Được phần mềm hỗ trợ, dễ sử dụng, blog phổ biến rất nhanh và ai cũng có thể dễ dàng tạo ra một blog cho mình.

Video trực tuyến

YouTube  là một trang web chia sẻ video nơi người dùng có thể tải lên, xem và chia sẻ các video clip (YouTube do 3 nhân viên cũ của PayPal tạo nên vào giữa tháng 2 năm 2005). Dịch vụ đặt tại San Bruno sử dụng công nghệ Adobe Flash để hiển thị nhiều nội dung video khác nhau, bao gồm những đoạn phim, đoạn chương trình ti vi và video nhạc, cũng như những phim nghiệp dư như video blogging và những đoạn video gốc chưa qua xử lý.

Description: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐÀO TẠO TRỰC TUYẾN (E-LEARNING) | VIỆN NGHIÊN CỨU TÀI  CHÍNH, ĐẦU TƯ VÀ HỢP TÁC, THƯƠNG MẠI ĐÔNG NAM Á

Viral Marketing (Marketing lan truyền)

Viral marketing là gì? Nó được định nghĩa dựa trên nguyên tắc lan truyền thông tin, cũng tương tự như cách thức virus lan truyền từ người này sang người khác với tốc độ cấp số nhân.

Giống như cách thức lan truyền của một con virus. Hình thức quảng cáo này bắt đầu từ giả thuyết một khách hàng luôn kể cho người khác nghe về sản phẩm hoặc dich vụ của bạn mà khách hàng cảm thấy hài lòng khi sử dụng.  

Social Networks (Mạng xã hội)

Mạng xã hội hay gọi là mạng xã hội ảo (Tiếng Anh: Social Network) là dịch vụ nối kết các thành viên cùng sở thích trên internet kết nối và chia sẻ với nhau với nhiều mục đích khác nhau không phân biệt không gian và thời gian. Mạng xã hội có những tính năng như chat, e-mail, phim ảnh, voice chat, chia sẻ files, blog, và xã luận. Mạng xã hội thay đổi hoàn toàn cách cư dân mạng liên kết với nhau và trở thành một phần tất yếu hằng ngày cho hàng trăm triệu thành viên trên khắp thế giới.

Nghiên cứu thị trường trực tuyến được sử dụng nhằm phục vụ cho các nhà sản xuất và cung cấp dịch vụ đánh giá về mức độ nhận biết thương hiệu, hay thăm dò ý kiến khách hàng cho một số cải tiến về sản phẩm và dịch vụ.

Giúp tìm ra những thị trường phù hợp và tiềm năng và các cơ hội dành cho sản phẩm của bạn, các xu hướng và triển vọng của thị trường để phát triển sản phẩm trong tương lai;

Cho phép thu gọn tầm nhìn và tổng hợp nguồn lực vào phạm vi nhất định một cách hiệu quả. Từ đó ưu tiên phát triển các mục tiêu cụ thể trong ngắn hạng và lên kế hoạch dài hạn trong tương lai;

Giúp xác định điểm mạnh điểm yếu. Đánh giá các nỗ lực trong thời gian qua có hiệu quả không hay lãng phí như thế nào để từ đó tiến hành những điều chỉnh tối ưu cần thiết;

Nghiên cứu thị trường giúp hiểu rõ hơn về nhu cầu người tiêu dùng từ đó tìm ra các ý tưởng để phát triển sản phẩm mới.

(1) Nghiên cứu thị trường theo phương pháp điều tra, khảo sát (Surveys):

Nghiên cứu thị trường theo phương pháp này với bảng hỏi ngắn gọn và đi thẳng vào vấn đề, bạn có thể phân tích được nhóm khách hàng mẫu đại diễn cho thị trường mục tiêu của mình. Mẫu càng lớn thì mức độ chính xác của kết quả điều tra càng cao.

• Phỏng vấn trực tiếp (In-person surveys) sử dụng tablet hoặc smartphone. Công nghệ mới cũng cho phép khảo sát trực tiếp sử dụng bảng hỏi trên tablet, kết nối với phần mềm quản lý khảo sát trên server, cung cấp thêm các tính năng như check-in địa điểm (nhờ GPS của tablet), chụp ảnh địa điểm hoặc người trả lời (để xác thực), xác nhận thời gian thực, kiểm soát lộ trình di chuyển của khảo sát viên, từ đó đảm bảo tính chân thực của khảo sát tốt hơn so với các phương thức bảng hỏi giấy truyền thống. Phương thức này cũng tiết kiệm được khâu nhập liệu và hạn chế được sai số.

• Khảo sát qua điện thoại (Telephone surveys) là phương pháp phổ biến hơn cả bởi nó không hề tốn kém và dễ dàng để thực hiện. Tuy nhiên, do người dân thường phản ứng tiêu cực trước hình thức tiếp thị từ xa, việc thuyết phục mọi người tham gia vào một cuộc phỏng vấn qua điện thoại ngày càng trở nên khó khăn. Tỉ lệ phản hồi theo phương pháp nghiên cứu thị trường này chỉ đạt 50-60% mà thôi.

• Khảo sát qua thư (Mail surveys) là cách thức chỉ cần một chút đầu tư là bạn đã có được lượng khán giả lớn. Cách nghiên cứu thị trường này rẻ hơn rất nhiều so với hai cách làm trên, nhưng chỉ thu được phản hồi của khán giả từ 3% đến 15%. Dù là lượng phản hồi thấp, khảo sát qua thư từ là một sự lựa chọn ít tốn kém cho các doanh nghiệp nhỏ.

• Khảo sát trực tuyến (Online surveys) thường mang lại tỷ lệ phản hồi khó dự đoán và kết quả không đáng tin cậy, bởi vì bạn không thể kiểm soát các thông tin phản hồi. Tuy nhiên, đây là phương pháp nghiên cứu thị trường đơn giản, ít tốn kém để có thể thu thập những bằng chứng và những ý kiến, sự ưu tiên của khách hàng. Ngày nay, một số công cụ có thể hỗ trợ việc thúc đẩy người trả lời bằng cách top-up tiền vào tài khoản mobile của họ, như một phần quà cám ơn, sau khi họ đã hoàn thành bảng hỏi. Tuy nhiên, dù thế nào, khảo sát online chỉ phù hợp với những bảng hỏi đơn giản hoặc phải có sự tác động trực tiếp vào người trả lời.

(2) Nghiên cứu thị trường theo phương pháp phỏng vấn nhóm (Focus Groups)

Trong phương pháp phỏng vấn nhóm, người điều phối sẽ sử dụng một chuỗi các câu hỏi hay chủ đề đã được soạn sẵn để dắt dẫn cuộc thảo luận giữa một nhóm người. Quá trình này được diễn ra ở một nơi trung lập, gắn với các thiết bị quay hay một phòng quan sát với rất nhiều gương. Một lần nghiên cứu thị trường theo nhóm trọng kéo dài từ một đến hai tiếng, bạn phải tiến hành với ít nhất là ba nhóm để có được kết quả đáng tin cậy.

Phương pháp phỏng vấn nhóm là một nhóm người được mời để thảo luận về sản phẩm, dịch vụ, nhận thức của họ về một công ty cụ thể, hoặc thậm chí là các vấn đề chính trị… theo hướng dẫn của một người trung gian đã được đào tạo. Người trung gian này có thể hỏi các thành viên trong nhóm tập trung, chẳng hạn như: “Anh chị cảm thấy thế nào về việc giá xăng tăng?”, “Anh chị nghĩ các nhà sản xuất xe hơi nên làm gì để giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực từ việc tăng giá này?”, “Nhà sản xuất xe hơi nào có nhiều khả năng nhất trong việc giải quyết hiệu quả vấn đề này?”,…

(3) Nghiên cứu thị trường theo phương pháp phỏng vấn sâu (Personal Interviews)

Phỏng vấn sâu là dạng phỏng vấn chỉ áp dụng trong những trường hợp nhà nghiên cứu ít nhiều đã xác định được sơ bộ vấn đề nghiên cứu và những thông tin cần thu thập cho đề tài. Vì vậy, trong phỏng vấn sâu, người phỏng vấn hoàn toàn tự do trong cách dẫn dắt cuộc phỏng vấn cũng như trong cách xếp đặt trình tự các câu hỏi, thậm chí cả cách thức đặt các câu hỏi nhằm thu thập được thông tin mong muốn. Nghiên cứu thị trường theo phương pháp này thường kéo dài trong vòng một tiếng và thường được ghi âm lại.

Phỏng vấn nhóm và phỏng vấn sâu thường mang lại những số liệu khả quan hơn là các bảng khảo sát, điều tra. Tuy nhiên, kết quả của phương pháp này có thể không đáng tin cậy bởi nó không đại diện cho một số lượng lớn khách hàng tiềm năng. Phỏng vấn nhóm hay phỏng vấn sâu giúp doanh nghiệp có được cái nhìn sâu sắc về thái độ của khách hàng và đây cũng là những phương pháp nghiên cứu thị trường tuyệt vời giúp bạn giải mã những vấn đề lien quan tới việc phát triển sản phẩm và dịch vụ mới.

Phỏng vấn những khách hàng không hài lòng và bị mất quyền lợi. Không ai mong muốn phải đón nhận những thông tin xấu cả, nhưng bạn có thể thu thập được nhiều thông tin từ việc phỏng vấn những khách hàng không hài lòng và bị mất quyền lợi hơn so với những người khác. Khách hàng tiềm năng có thể cho bạn biết họ muốn những gì, nhưng chưa có gì bảo đảm rằng họ sẽ bỏ tiền ra để mua sản phẩm đó. Những khách hàng hài lòng có thể cho bạn biết họ chờ đợi gì từ sản phẩm của bạn, nhưng bạn cũng đã dự đoán được điều này rồi. Trong khi đó, những khách hàng không hài lòng và mất quyền lợi có thể chỉ ra những điểm yếu, những gì không thỏa đáng của các sản phẩm và dịch vụ mà bạn cung cấp.

Bên cạnh đó, bạn có thể thu thập thêm nhiều dữ liệu thị trường thông qua các nguồn tài liệu phổ biến như các ấn bản của chính phủ, dữ liệu điều tra dân số, tạp chí thương mại, các buổi triển lãm thương mại và Internet. Những công ty nhỏ, nếu thiếu vốn để tổ chức một phòng nghiên cứu độc lập, có thể tận dụng những nguồn này. Tuy nhiên, với một số nghiên cứu đặc thù, công ty có thể phải mua các dịch vụ nghiên cứu hoặc, nếu cần phải tiến hành nghiên cứu theo yêu cầu riêng, công ty có thể thuê các nguồn lực bên ngoài để thực hiện theo một mức phí nhất định nào đó đã được hai bên nhất trí.

 

Description: Ứng dụng thương mại điện tử trong phát triển du lịch(4) Nghiên cứu thị trường theo phương pháp quan sát hành vi (Observation)

Những phản hồi cá nhân trong bảng khảo sát và phỏng vấn nhóm đôi khi không đồng nhất với những hành vi của người tiêu dùng. Do đó bằng cách quan sát hành vi của họ khi làm việc hay mua sắm sẽ cho chúng ta hiểu được thói quen của họ. Khi quan sát hành động của khách hàng bằng cách ghi hình lúc họ đang ở trong cửa hàng, ở nơi làm việc hay cơ quan, ở nhà, bạn có thể quan sát họ mua và sử dụng sản phẩm như thế nào. Điều này sẽ giúp bạn vẽ nên được bức tranh tin cậy về hành vi mua sắm và thói quen sử dụng của khách hàng. Sự phát triển của công nghệ cho phép các doanh nghiêp có thể dễ dàng quan sát hành vi của khách hàng nhờ camera từ đó quan sát hành vi khách hàng tốt hơn, thời gian dừng ở từng địa điểm, điểm dừng chân cuối cùng trước khi mua sắm một loại dịch vụ…

Hãy quan sát những sản phẩm hay dịch vụ mà khách hàng đang mua và cách khách hàng sử dụng chúng. Hãy quan tâm đặc biệt đến những khó khăn mà khách hàng gặp phải khi dùng các sản phẩm và dịch vụ thông dụng. Những khó khăn này có thể đại diện cho các cơ hội thị trường. Nhân viên bán hàng là những người có điều kiện tốt nhất để nghiên cứu bằng phương pháp quan sát.

(5) Nghiên cứu thị trường theo phương pháp thử nghiệm (Field trials)

Thử nghiệm sản phẩm mới tại một vài địa điểm tiềm năng để xem phản ứng khách hàng từ đó có những điều chỉnh thích hợp về giá cả và hoàn thiện sản phẩm là một cách nghiên cứu thị trường hay. Phương pháp khảo sát thị trường này cần nhiều mối quan hệ với các cửa hàng, doanh nghiệp và trang web thương mại điện tử để có thể thử nghiệm và thu thập thông tin dễ dàng. Các doanh nghiệp nhỏ nên cố gắng xây dựng mối quan hệ với các chủ cửa hàng bán lẻ địa phương và các trang web mua sắm để có thể thử nghiệm sản phẩm của mình trên thị trường.

(6) Nghiên cứu thị trường bằng phương pháp cách theo dõi hành vi sử dụng Internet, mạng xã hội, wifi, Big Data và cơ sở dữ liệu khách hàng.

Nghiên cứu thị trường dựa trên nhu cầu tìm kiếm và hành vi của người tiêu dùng trên internet, những hành vi này ngày qua ngày được thu thập càng nhiều hơn do đó đây là nguồn dữ liệu vô cùng rộng lớn và vì vậy nên cũng cần có một nền tảng chuyên môn để có thể hiểu, phân tích những thông tin này để rút ra được những dữ liệu hữu dụng. Sự hỗ trợ của Big Data và các công cụ theo dõi ngày càng hiện đại và tinh vi, hầu như các hành vi của người tiêu dùng đều được bộc lộ trên Internet hoặc các mạng xã hội mà họ tham gia.

Khảo sát nghiên cứu về hành vi sử dụng mạng xã hội của người Việt năm 2016. Số lượng tham gia khảo sát: 500 Nam/Nữ trong độ tuổi 18-49 tại Hồ Chí Minh và Hà Nội. Khảo sát được thực hiện vào tháng 7, 2016. Người Việt Nam dành 237 phút cho Internet mỗi ngày và chưa tới 91 phút cho TV.  Trung bình mỗi người dùng “thích” 48 trang fanpage thương hiệu 75% bỏ “thích” hay “unlike” trang fanpage nếu thấy không hài lòng với nội dung hay chất lượng của trang.  57% click chuột vào quảng cáo Facebook trong vòng 7 ngày và 41% mua hàng sau khi thấy quảng cáo.

Khả năng nắm bắt thị trường của siêu thị Tesco – một hệ thống siêu thị hàng đầu ở Anh đã chứng tỏ được sự nhạy bén và linh động trong việc thu thập và sử dụng thông tin khách hàng. Bằng cách khai thác dữ liệu khách hàng thông qua các thẻ khách hàng thân thiết, Tesco đã hiểu thêm về nhu cầu, sự hài lòng của khách hàng đối với các sản phẩm hiện tại, cũng như khám phá thêm nhiều cơ hội bán hàng mới. Tesco đã sử dụng thông tin này vào dịch vụ bán hàng trực tuyến qua website với nhiều sản phẩm như sách, đĩa CD và DVD, thẻ tín dụng, vốn vay, bảo hiểm, điện thoại di động và dịch vụ băng thông rộng. Nhờ tính đa dạng và tiện lợi của dịch vụ trực tuyến này mà doanh thu của Tesco ngày một tăng cao.

Thu thập và phân tích cơ sở dữ liệu khách hàng. Sự phát triển của công nghệ thông tin và mã vạch đã giúp các công ty có thể lưu giữ thông tin về nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. Chẳng hạn, bằng cách truy tìm dữ liệu bán hàng trên máy tính, một siêu thị có thể xác định chính xác và nhanh chóng mức độ ưa chuộng của khách hàng về các loại nước ngọt có gas. ScrubaDub – một hệ thống rửa xe ở Boston – đã lưu mã vạch xe của khách hàng để xác định tần số sử dụng, cũng như để có hình thức khuyến mãi cho khách hàng trung thành. Các công ty gửi thư trực tiếp như Lands” End lại đi một bước xa hơn khi khai thác cơ sở dữ liệu khách hàng nhằm xác định những khách hàng nào nên nhận catalog hay hàng cung cấp đặc biệt.

Tóm lại, Ta thấy được trong mỗi trường hợp khác nhau, có thể vận dụng các phương pháp khác nhau nhưng nhìn chung phương pháp khảo sát trực tuyến nếu giải quyết được các mặt hạn chế thì sẽ là phương pháp khảo sát thị trường tốt nhất cho phần lớn mọi người vì tích hợp được các yếu tố: trung thực, nhanh chóng, ít tốn kém và dễ phân tích.

7.4.3.2. Phân khúc thị trường và xác định thị trường mục tiêu

Phân khúc thị trường là quá trình phân chia thị trường thành từng nhóm có những nhu cầu tương tự nhau, quan điểm như nhau và ứng xử như nhau đối với những sản phẩm cung ứng nhất định. Mục đích của việc phân đoạn thị trường để công ty có thể có cơ hội tốt nhất phục vụ các phân đoạn nhất định, gọi là các phân đoạn thị trường mục tiêu hay nói gọn là thị trường mục tiêu. Công ty sẽ tiến hành định vị sản phẩm, thiết lập các chính sách marketing và triển khai thực hiện các chương trình marketing thích hợp cho phân đoạn thị trường mục tiêu.

Thực tế mọi thị trường đều có thể phân khúc thành những thị trường nhỏ hơn. Đoạn thị trường là những nhóm lớn có thể nhận biết được trong một thị trường. Ví dụ trong thị trường cung cấp dịch vụ đào tạo bán hàng trực tuyến có thể chứa phân khúc những đối tượng có nhu cầu học marketing online. Trong nhóm đó lại được phân thành: nhóm muốn học tổng quan, nhóm muốn học chuyên sâu … và trung tâm đào tạo sẽ có những khóa học hướng đến từng nhóm khách hàng riêng.

Tại sao cái tên Chanel được biết đến như một nhãn hiệu thời trang cao cấp đáng tự hào nhất của ngành công nghiệp thời trang nước Pháp? Bởi hơn bất kì nhãn hiệu nào, Chanel mang trọn vẹn nhiều tinh hoa của ngành thời trang cổ điển thời đại trước. Đó chính là sự thành công trong phân khúc thị trường của nhãn hiệu này.

Phân khúc thị trường

Phân khúc thị trường hay còn gọi là marketing mục tiêu là khái niệm trái ngược với tiếp thị đại trà và tiếp thị sản phẩm đa dạng. Mục tiêu của việc phân khúc thị trường trong tiếp thị là chia thị trường ra thành những phân khúc nhỏ hơn, dễ nhận biết, nắm bắt và đáp ứng hiệu quả hơn.

Người xem hàng hóa (viewers): website cần thật sự ấn tượng để thu hút được những khách hàng này, bằng từ ngữ và hình ảnh đặc biệt để tạo dấu ấn;

– Người tìm hiểu về hàng hóa (seekers): website cần có công cụ để so sánh các sản phẩm, dịch vụ, nhận xét của khách hàng, gợi ý, tư vấn;

– Người mua hàng hóa (shoppers): website cần được tổ chức và thiết kế sao cho việc mua hàng thuận tiện nhất.

Phân khúc thị trường

Dù mô hình phân khúc thị trường trên được sử dụng tương đối phổ biến, vẫn còn rất nhiều hành vi của khách hàng chưa được giải thích đầy đủ. Theo một nghiên cứu của McKinsey & Company, điều tra 50.000 người sử dụng Internet và đã tách được thành sáu nhóm với các đặc điểm khác nhau căn cứ vào hành vi của họ.

Nhóm 1: những người thích sự tiện lợi (simplifier-convenience). Đây là những khách hàng quan tâm và bị thu hút bởi những website có quy trình kinh doanh đơn giản, thuận tiện, nhanh và hiệu quả hơn so với các quy trình kinh doanh truyền thống.

Nhóm 2: những người thích tìm kiếm thông tin (surfer). Những khách hàng này thích duyệt các trang web để tìm hiểu thông tin, ý tưởng mới, và mua sắm. Họ thích giải trí và dành nhiều thời gian hơn các nhóm còn lại trên các website. Để thu hút được nhóm này, website cần có nhiều nội dung hấp dẫn, trình bày đẹp và update thường xuyên.

Nhóm 3: những người thích mặc cả (bargainer). Họ tìm kiếm những sản phẩm tốt, và giá cả thấp nhất. Mặc dù chiếm ít hơn 10% tổng số khách hàng được điều tra, họ chiếm 50% trong số khách hàng tham gia vào eBay. Họ thích việc duyệt web để tìm các mức giá thấp nhất và sẵn sàng xem tất cả các website liên quan để đạt được kết quả này.

Nhóm 4: những người thích hòa đồng (connectors). Những khách hàng này thích quan hệ, giao tiếp với mọi người, tham gia các chat room, thích gửi và nhận tin nhắn, thích sử dụng các website có card điện tử, email… Họ thường trẻ tuổi, thu nhập và khả năng chi tiêu thấp, thường có mục đích tìm hiểu, tham gia các hoạt động trên web nhiều hơn mua sắm.

Nhóm 5: những khách hàng thường xuyên (rountiners). Đây là những khách hàng sử dụng web để thu thập thông tin, mua bán chứng khoán, thông tin thị trường tài chính… Những người này thích những giao diện mà họ quen thuộc và thoải mái.

Nhóm 6: những người thích thể thao, giải trí (sporters). Tương tự nhóm 5, nhưng họ quan tâm nhiều đến thể thao, giải trí hơn những thông tin về tài chính. Họ coi web là phương tiện giải trí, do đó các website cần phải đẹp, hấp dẫn và có tính tương tác cao.

Nhà kinh doanh là xác định nhóm khách hàng nào sẽ đến thăm website của mình và từ đó hoạch định các chính sách để tạo ra doanh thu từ những khách hàng này. Ví dụ, nhóm khách hàng thích sự tiện lợi và thích mặc cả có khả năng mua nhiều hơn và quan tâm đến những sản phẩm cụ thể hơn. Những nhóm khách hàng khác như thích tìm kiếm thông tin, khách hàng thường xuyên cần được quảng cáo với các thông điệp khác nhau. Có một số website sử dụng phương pháp của Dell, qua đó khách hàng sẽ cung cấp một số thông tin về bản thân và những mối quan tâm của họ, qua đó website sẽ tự động điều chỉnh để đưa ra những sản phẩm, dịch vụ mà họ có khả năng quan tâm nhiều hơn.

Chi phí và tỷ lệ thành công khi thu hút và duy trì khách hàng qua mạng như thế nào? Quảng cáo trên web có nhiều hình thức đa dạng và hấp dẫn, từ các banner đặt trên các website lớn đến các thư điện tử gửi trực tiếp. Tuy nhiên, theo thống kê, mức độ thành công của marketing điện tử được thể hiện dựa trên hiệu quả tác động đến các giai đoạn mua hàng của khách hàng. Từ khi khách hàng nhận biết nhu cầu thông qua giai đoạn quảng cáo đến khi khách hàng ra quyết định mua, tỷ lệ này vào khoảng 1 phần nghìn. Cụ thể:

Nhận biết nhu cầu: 500.000 người nhận được thông điệp quảng cáo điện tử.

– Tìm kiếm thông tin: 10.000 người xem thông điệp.

– Đánh giá các lựa chọn: 900 người xem đánh giá các lựa chọn

– Thực hiện việc mua hàng: 500 người thực hiện mua

– Tiếp tục mua hàng lần sau: 80 người tiếp tục quay lại mua.

– Tỷ lệ khách hàng tiếp tục quay lại mua hàng từ các quảng cáo trên mạng tương đối thấp, do đó người bán cần triển khai nhiều biện pháp hoặc nhiều đợt quảng bá, xúc tiến để tăng khả năng thành công.

Xác định thị trường mục tiêu trong marketing điện tử có gì mới?

Thị trường mục tiêu: là thị trường tại đó doanh nghiệp có khả năng thỏa mãn nhu cầu tốt nhất. Doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao hơn các doanh nghiệp khác trên thị trường này, có ít đối thủ cạnh tranh tiềm tàng, có khả năng đáp ứng các mục tiêu về doanh số, lợi nhuận, thị phần của doanh nghiệp. Thị trường mục tiêu của một số công ty thương mại điện tử có thể giống hoặc khác khác với thị trường mục tiêu của các công ty truyền thống. McDonalds.com vẫn chỉ tập trung vào thị trường mục tiêu của công ty. Tuy nhiên, Amazon.com tập trung vào thị trường mục tiêu hoàn toàn mới. Thị trường mục tiêu của Shwab.com lại là thị trường mở rộng bên cạnh thị trường khách hàng giao dịch chứng khoán truyền thống.

Định vị sản phẩm có gì khác trong marketing điện tử? Định vị sản phẩm là việc xây dựng nét riêng của sản phẩm và công ty nổi bật hơn so với các sản phẩm và công ty cạnh tranh. Trong marketing truyền thống, định vị sản phẩm dựa vào những nét khác biệt như: chất lượng cao nhất (Sony), rẻ nhất (SYM), an toàn nhất (Volvo), dịch vụ tốt nhất (Singapore Airlines, British Airlines), sang trọng nhất (Merceides, Lexus, Omega, Rolex), thời trang nhất (Swatch), bền nhất (Electrolux), tiết kiệm nhiên liệu nhất: (Toyota). Trong marketing điện tử, những nét riêng mới được hình thành và sử dụng để định vụ sản phẩm, doanh nghiệp: Amazon.com – cửa hàng lớn nhất thế giới, Dell.com – giải pháp tốt nhất cho khách hàng, Ford – sản xuất xe theo đơn đặt hàng trong vòng 2 tuần thay vì 15 tuần, Google – kho thông tin và kiến thức chung lớn nhất.

7.4.4. Các chiến lược marketing trực tuyến hỗn hợp

Marketing hỗn hợp là một khái niệm cơ bản trong lĩnh vực marketing (đồng thời được biết đến như là 4P), là tập hợp các công cụ tiếp thị được doanh nghiệp sử dụng để đạt được trọng tâm tiếp thị trong thị trường mục tiêu.

7.4.4.1. Chính sách sản phẩm trong marketing trực tuyến

Trong marketing sản phẩm chính là tập hợp những lợi ích mà người bán cung cấp cho người mua, bao gồm cả yếu tố hữu hình và vô hình như danh tiếng, thuận tiện, dịch vụ kèm theo. Sản phẩm trong marketing trực tuyến được chia làm hai loại: thứ nhất gồm các sản phẩm hoàn toàn mới, chỉ được hình thành khi Internet phát triển và thứ hai gồm các sản phẩm truyền thống được thêm các thuộc tính mới từ Internet.

Internet tạo ra các sản phẩm hoàn toàn mới

– Sản phẩm cốt lõi: nhu cầu trao đổi thông tin thuận tiện, rẻ, nhanh, toàn cầu (qua thư điện tử); nhu cầu quảng báo toàn cầu; nhu cầu đàm phán, giao dịch, trao đổi toàn cầu; thông tin hàng ngày cập nhật; chia sẻ các tài nguyên số hóa;

– Sản phẩm hiện thực: những sản phẩm mới hoàn toàn chỉ có sau khi phổ cập internet ví dụ: thư điện tử, website, catalogue điện tử, báo điện tử, forum, chat, video chat, trò chơi điên tử trên mạng, diễn đàn để chia sẻ phần mềm, các mô hình kinh doanh điện tử;

– Sản phẩm bổ sung: Dịch vụ sau bán hàng, các dịch vụ công của nhà nước; thu thuế trên mạng; đào tạo trên mạng; dịch vụ ngân hàng điện tử.

Internet hỗ trợ chính sách sản phẩm truyền thống

– Phát triển sản phẩm mới: Sử dụng Internet và Web để thu thập ý kiến khách hàng về các sản phẩm mới. Ví dụ www.volkswagen.com khi đưa ra sản phẩm xe Beetle cải tiến (1998) đã tiến hành điều tra ý kiến khách hàng 18 tháng qua website và sản phẩm mới thực sự thành công;

– Sử dụng Internet vào phát triển sản phẩm may mặc: liên kết giữa nhà thiết kế, nhà cung cấp nguyên liệu, nhà máy sản xuất, công ty phân phối và khách hàng thông qua internet để sản xuất hiệu quả hơn;

– Xây dựng và phát triển thương hiệu trên Internet: quảng bá, giới thiệu, củng cố quan hệ, tạo dựng sự tin tưởng của khách hàng. Chẳng hạn, khách hàng đã sử dụng có thể đánh giá, chia sẻ ưu nhược sản phẩm. Nếu sản phẩm tốt họ sẽ thuyết phục người thân sử dụng. Nếu sản phẩm tồi thì doanh nghiệp có thể cải tiến – hoàn thiện sản phẩm phù hợp hơn với thị trường.

7.4.4.2. Chính sách giá trong marketing trực tuyến

Các chiến lược định giá truyền thống thường căn cứ vào chi phí, giá của đối thủ cạnh tranh, giá trên các thị trường chính, giá tại sở giao dịch, khả năng thanh toán của khách hàng… Đối với môi trường Internet, chính sách giá của các công ty chịu ảnh hưởng rất lớn từ giá của đối thủ cạnh tranh vì mọi mức giá có thể được công bố công khai trên mạng, khách hàng có thể tiếp cận nhiều nguồn thông tin hơn để đánh giá về lợi ích và chi phí đối với các quyết định mua hàng của họ.

Hơn nữa, trên Internet tại các thị trường khác nhau, công ty khó có thể định các mức giá khác nhau như trước đây. Ví dụ, hãng đồng hồ Swatch (www.swatch.com) khó có thể định giá khác nhau cho các sản phẩm điện tử và đồng hồ của mình khác nhau tại các thị trường khác nhau vì khách hàng hoàn toàn có thể tìm được giá tại các thị trường.

Đối với các sản phẩm số hoá như âm nhạc, phần mềm, game, tư vấn, đào tạo trực tuyến… rất khó có định giá khác nhau mặc dù khách hàng mục tiêu tại các khu vực thị trường khác nhau có mức thu nhập bình quân khác nhau. Khi doanh nghiệp tiếp cận được thị trường toàn cầu, đồng thời đối thủ cạnh tranh và khách hàng cũng tiếp cận được nguồn thông tin toàn cầu đòi hỏi chính sách giá toàn cầu và nội địa cần thay đổi để có sự thống nhất và phù hợp giữa các thị trường.

Ngoài ra, quan điểm marketing trước đây cho rằng hàng triệu người tiêu dùng đang hướng về trang web để tìm ra mức giá rẻ nhất, các nhà bán lẻ trực tuyến trong nhiều lĩnh vực nhận thấy rằng họ không thể cạnh tranh giá được nữa. Bởi nhiều nhà sản xuất áp đặt mức giá tối thiểu cho các sản phẩm của họ, và trong một vài trường hợp thì các nhà bán lẻ bán dưới mức giá đó bị cắt giảm. Nói cách khác, Internet cho phép người tiêu dùng sử dụng sản phẩm, dịch vụ với chi phí thấp, giá thành hạ, chất lượng dịch vụ tốt, đồng thời cung cấp các giá trị tốt hơn cho khách hàng.

7.4.4.3. Chính sách phân phối trong marketing trực tuyến

Đối với hàng hoá được số hoá, việc phân phối có thể thực hiện hiệu quả qua mạng. Một số sản phẩm có thể được gửi trực tiếp cho khách hàng qua mạng như: gửi trực tiếp qua mạng: phần mềm, âm nhạc, game. Một số sản phẩm lại có thể được phân phối bằng cách cho khách hàng tự tải về từ trên mạng (download) như: phần mềm, âm nhạc, game… Một số sản phẩm được phân phối thông qua các đại lý ở gần khách hàng; khi đó đại lý sẽ in sản phẩm lên đĩa CD/DVD rồi gửi tới khách hàng.

Đối với hàng hoá hữu hình, việc phân phối vẫn có thể sử dụng Internet và web hỗ trợ để nâng cao hiệu quả thông qua thiết lập cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các bên trong hệ thống phân phối; kiểm soát hàng hoá trong quá trình phân phối (FedEx, DHL…); mở rộng kênh phân phối đến các vùng địa lý mới (website thay cho các phòng trưng bày truyền thống).

Việc thêm, bớt hay tái lập các trung gian phân phối mới chỉ mang tính chất tương đối và mô hình các kênh phân phối sẽ không giống nhau đối với các sản phẩm, ngành nghề vì còn phụ thuộc vào thói quen mua hàng và vào tương quan lực lượng sản xuất và phân phối của mặt hàng cụ thể đó.

7.4.4.4. Chính sách xúc tiến thương mại trong marketing trực tuyến

Xúc tiến thương mại là tập hợp các hoạt động thông tin, giới thiệu về sản phẩm, thương hiệu, về tổ chức, các biện pháp kích thích tiêu thụ nhằm đạt được mục tiêu truyền thông của doanh nghiệp. Thông qua các công cụ của thương mại điện tử như thư điện tử, các Website…doanh nghiệp tiến hành giới thiệu, quảng cáo về sản phẩm cũng như uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp, đặc biệt là xây dựng hình ảnh doanh nghiệp cho những người thường xuyên truy cập Internet và trao đổi thư từ điện tử.

Xúc tiến thương mại trong marketing điện tử còn liên quan tới việc xây dựng, quảng bá thương hiệu cho website của doanh nghiệp. Hầu hết các công ty sử dụng quảng cáo trực tuyến đều đã sử dụng các công cụ quảng cáo truyền thống. Để quảng cáo hiệu quả nên sử dụng phối hợp các hình thức với nhau. Ví dụ, trong các quảng cáo trên báo, tạp chí… nên đưa địa chỉ website của doanh nghiệp vào đó. Quảng cáo dạng banner là một trong các hình thức quảng cáo điện tử phổ biến hiện nay. Ngoài ra còn có nhiều hình thức quảng cáo khác như pop-up, thư điện tử….Dưới đây là một số hình thức quảng bá sản phẩm qua mạng Internet.

Banner Ads: là ô quảng cáo hình chữ nhật được đặt trên các trang web, có dạng tĩnh hoặc động, liên kết đến một trang web chứa các nội dung thông tin của quảng cáo. Các quảng cáo này có thể đáp ứng mục tiêu cung cấp thông tin hoặc thuyết phục khách hàng mua sản phẩm, dịch vụ. Hiện nay, các banner được thiết kế tinh tế hơn, có thể tự thay đổi trong khi trang web vẫn giữ nguyên nhằm thu hút sự chú của người xem bằng những hình ảnh động.

Pop-up: là dạng quảng cáo được thể hiện dưới dạng một cửa sổ mới khi người sử dụng mở một trang web nào đó. Cửa sổ này không có các nội dung và hình thức giống một trang web thông thường mà chỉ chứa duy nhất nội dung quảng cáo. Cách duy nhất để thoát khỏi cửa sổ pop-up này là kích vào nút đóng cửa sổ này ở góc trên, bên phải. Một dạng quảng cáo, ít gây bực mình hơn cho người sử dụng là pop-up behinds, tức là cửa sổ quảng cáo được hiện ra nhưng nằm ở phía sau trang web mà người sử dụng mở. Theo nghiên cứu của hãng tư vấn phương tiện tương tác Anh năm 2004, quảng cáo dạng pop-up không chỉ gây bực mình đối với người dùng mà còn tạo ra sự thiếu thiện cảm của người dùng đối với công ty đang quảng cáo. Bất chấp kết quả nghiên cứu trên, nhiều doanh nghiệp vẫn tiếp tục sử dụng quảng cáo dạng pop-up để thu hút sự chú ý của người sử dụng.

Quảng cáo qua email: là cách sử dụng thư điện tử gửi trực tiếp đến những khách hàng tiềm năng. Phương pháp này nếu lạm dụng sẽ trở thành hình thức gửi thư rác (spam). Đế tránh bị coi là thư rác, trước khi gửi nội dung quảng cáo, người gửi cần có biện pháp để biết được người nhận có đồng ý nhận các thư quảng cáo này hay không.

Quảng cáo qua các công cụ tìm kiếm (search engine): là cách đăng ký trên các công cụ tìm kiếm để người sử dụng khi tìm kiếm các nội dung liên quan thì nội dung quảng cáo sẽ xuất hiện.

Đăng ký vào các cổng thông tin thương mại điện tử: là cách đăng ký vào cơ sở dữ liệu thành viên trong các cổng thông tin điện tử. Khi khách hàng tiềm năng tìm kiếm trên cơ sở dữ liệu này về các nội dung liên quan, khả năng tìm thấy công ty sẽ cao hơn so với việc đăng ký trên các công cụ tìm kiếm phổ thông.

Ngoài ra doanh nghiệp có thể sử dụng thêm hai hình thức sau để quảng bá website của mình:

Quảng cáo lan tỏa (viral marketing): là hình thức gửi kèm theo thông điệp quảng cáo những thông tin hấp dẫn đối với khách hàng như bưu thiếp điện tử (e-card) hay phần mềm miễn phí… để tạo động lực cho khách hàng gửi tiếp những thông điệp này cho bạn bè, người quen của mình. Như vậy, chính người nhận sẽ là người tiếp tục phát tán các quảng cáo của công ty đi rộng hơn.

Sự kiện trực tuyến: là hình thức tổ chức các sự kiện như cuộc thi, đố vui, phỏng vấn trực tuyến trên website của doanh nghiệp để thu hút nhiều người tham gia và biết đến website.

Quảng bá website doanh nghiệp qua thư điện tử: đây cũng là một hình thức sử dụng phổ biến mà các doanh nghiệp thương mại điện tử đang làm để giới thiệu doanh nghiệp của mình tới người tiêu dùng và đối tác.

Quảng cáo trên mạng có nhiều hình thức đa dạng và hấp dẫn, từ các banner đặt trên các website lớn đến các thư điện tử gửi trực tiếp. Tuy nhiên, theo thống kê, mức độ thành công của marketing điện tử được thể hiện dựa trên hiệu quả tác động đến các giai đoạn mua hàng của khách hàng. Từ khi khách hàng nhận biết nhu cầu thông qua giai đoạn quảng cáo đến khi khách hàng ra quyết định mua, tỷ lệ này vào khoảng 1 phần nghìn. Tỷ lệ khách hàng tiếp tục quay lại mua hàng từ các quảng cáo trên mạng tương đối thấp, do đó người bán cần triển khai nhiều biện pháp hoặc nhiều đợt quảng bá, xúc tiến để tăng khả năng thành công.

 

I.MÔ HÌNH KINH DOANH TRUYỀN THỐNG

  • Sách phân phối bán lẻ tại Nhà sách Kinh tế. Địa chỉ: 490B Nguyễn Thị Minh Khai, P2,Q3 – TP.HCM. Mobile: 090302640 hoặc 0938514478
  • Sách phân phối bán lẻ tại Nhà sách Thăng Long.  Địa chỉ:44 Xô Viết Nghệ Tĩnh, Phường 19, Quận Bình Thạnh  (028) 35140632  hoặc 0938514478

· II. KINH DOANH TRỰC TUYẾN TRÊN CÁC SÀN

  • BÁN LẺ TRỰC TUYẾN;  0938514478; ZALO: 0938514478  Giảm 30% giá bìa, thư viện mua 2 cuốn trở lên – giảm 50%

 

 


[ad_2]
Source link

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *