PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG LÃNH ĐẠO

[ad_1]

           NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO

LỜI NÓI ĐẦU

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) đánh dấu đỉnh cao của văn minh nhân loại, được kỳ vọng sẽ tạo ra những điều kỳ diệu cho cuộc sống con người. Nắm bắt cơ hội từ cuộc cách mạng này, mỗi quốc gia nói chung và doanh nghiệp nói riêng cần có một số yếu tố quan trọng đó là: người lãnh đạo, quản lý sáng tạo với tầm nhìn 4.0; nguồn nhân lực chất lượng cao với cơ sở hạ tầng đồng bộ cho tiến bộ khoa hoc, công nghệ và đổi mới sáng tạo.

CMCN 4.0 đòi hỏi người lãnh đạo, quản lý phải là những chuyên gia, vững về chuyên môn có năng lực tư duy và sáng tạo, đổi mới, có kỹ năng phân tích và tổng hợp thông tin, có khả năng làm việc độc lập và ra quyết định dựa trên cơ sở phân tích các chứng cứ và dữ liệu. Nhằm giúp người lãnh đạo, quản lý bắt nhịp với dòng chảy của cuộc cách mạng này, một số vấn đề cần lưu ý sau:

Một là, vận dụng những bài học kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển trong việc đổi mới cơ chế, chính sách; áp dụng mô hình doanh nghiệp 4.0 với người lãnh đạo kiệt xuất, doanh nghiệp tự chủ, nhân viên sáng tạo. Liên kết, hợp tác quốc tế trong sản xuất kinh doanh thông qua các hoạt động hợp tác đa phương, song phương như nghiên cứu khoa học, trao đổi công nghệ, dây chuyền sản xuất; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực.

Hai là, người lãnh đạo, quản lý cần tập trung mọi nỗ lực tạo nên những chuyển biến tích cực trong doanh nghiệp thông qua việc đổi mới phương thức lãnh đạo, quản lý kinh tế; ứng dụng công nghệ thông tin trong các lĩnh vực. Trong môi trường 4.0, chính là sự lên ngôi của công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, trạng thái số hóa và thông minh hóa các ứng dụng công nghệ thông tin, cần phải thay đổi căn bản trên cơ sở lấy sản phẩm làm trung tâm và sự ứng dụng công nghệ trong dây chuyền sản xuất.

Ba là, đối với khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, người lãnh đạo, quản lý nên: (i) Đầu tư, tạo điều kiện cho những nhà khoa học, kỹ sư sáng tạo, biến ý tưởng triển vọng thành sản phẩm; đầu tư đặc biệt cho những ý tưởng đột phá. (ii) Lấy tính sáng tạo của sản phẩm khoa học, công nghệ làm tiêu chí cao nhất để đánh giá chất lượng sản phẩm, cũng như đánh giá hiệu quả công việc và định mức thu nhập của các nhà khoa học, kĩ sư sáng chế…để không ngừng  đam mê nghiên cứu và sáng tạo.

Như vậy, trong cuộc CMCN 4.0, vai trò của các nhà lãnh đạo, quản lý càng trở nên quan trọng. Các quyết định cần thiết phải được đưa ra nhanh hơn và kịp thời hơn. Người lãnh đạo chính là người mưu tính toàn cục, là người đưa ra quyết định cuối cùng để giải quyết các vấn đề khó khăn.  Thực lực của người lãnh đạo xuất phát từ phán đoán chính xác về các thay đổi trong tương lai. Giữa kế hoạch và biến đổi, giữa nghĩ và làm, giữa tri thức và hành động có khoảng cách rất lớn. Thu nhỏ một cách tối đa những khoảng cách này chính là nhiệm vụ lớn lao của người lãnh đạo.

Ngoại trừ quyền lực cứng đủ để điều khiển sự phát triển của doanh nghiệp, người lãnh đạo còn cần phải có khả năng thích ứng. Một người lãnh đạo kiệt xuất là người có thể căn cứ vào quy mô lớn nhỏ và các giai đoạn phát triển khác nhau của doanh nghiệp để sẵn sàng điều chỉnh phương pháp và phong cách lãnh đạo của mình. Giống như Konosuke Matsushita từng nói: “Khi nhân viên của tôi có 100 người, tôi cần phải đứng trước mặt họ để chỉ huy; khi nhân viên của tôi có 1000 người, tôi cần phải đứng ở giữa họ, khẩn cầu nhân viên dốc sức hỗ trợ; khi nhân viên của tôi lên đến hàng chục nghìn người, tôi chỉ cần đứng phía sau họ, trong lòng cảm kích là được.”

Sức ảnh hưởng của lãnh đạo là một dạng của quyền lực mềm. Cái gọi là sức ảnh hưởng chính là năng lực khi một người tiếp xúc với người khác tạo nên tác động thay đổi hành vi và tâm lí của người kia. Sức ảnh hưởng được hiểu là khả năng thuyết phục một ai đó hành động và suy nghĩ theo cách chúng ta muốn. Hơn nữa, sức ảnh hưởng của một người cũng tùy thuộc vào từng đối tượng, hoàn cảnh… mà thay đổi.

Với tư cách là một người lãnh đạo, cần phải nỗ lực học tập, không ngừng tiếp nhận tri thức mới, tăng thêm kĩ năng và năng lực, từ đó có thêm tài phán đoán, tài tổ chức, tài chỉ huy bài binh bố trận, tài sáng tạo theo kịp thời đại và tài ứng biến lãnh đạo và thay đổi khi cần thiết. Người Nhật có một khái niệm là “kaizen”, có nghĩa là cải tiến liên tục – nghĩa là luôn đặt câu hỏi để công việc ngày hôm nay tốt hơn ngày hôm qua. Và bạn sẽ làm tốt hơn bằng cách thay đổi. Nếu bạn dậm chân tại chỗ có nghĩa là bạn đang tạo cơ hội để đối thủ vượt lên trên.

Người lãnh đạo không chỉ là trụ cột mà còn tài sản lớn nhất của doanh nghiệp; không chỉ có năng lực, kĩ năng, mà càng phải có trí lực và trực giác tinh tường để tháo gỡ thông suốt mọi chuyện, đồng thời không ngừng đột phá, mở rộng giới hạn của bản thân. Ngoài ra, nhà lãnh đạo thường xuyên phải đối mặt với khủng hoảng và biến động, từ rò rỉ thông tin, đến thiên tai hay đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trên toàn cầu, nền kinh tế tê liệt, gần như chết đứng. Giữa cơn biến động này cần có nhà lãnh đạo vượt qua khủng hoảng và đưa ra những quyết định tốt hơn.

Nhằm đáp ứng yêu cầu đó, tập thể tác giả do Tiến sĩ Nguyễn Văn Hùng làm chủ biên, đã nghiên cứu biên soạn tập sách “Nghệ thuật lãnh đạo” gồm với 27 chương và 3 tập sẽ cung cấp kiến thức tương đối toàn diện trong lĩnh vực lãnh đạo.

TẬP 1: KHOA HỌC LÃNH ĐẠO

Chương 1: Tổng quan về nghệ thuật lãnh đạo

Chương 2: Quyền lực và sự ảnh hưởng lãnh đạo

Chương 3: Hiệu quả của quyền lực và các chiến lược

Chương 4: Phẩm chất năng lực và kỹ năng lãnh đạo

Chương 5: Bản chất công việc và vai trò người lãnh đạo

Chương 6: Phong cách lãnh đạo và sự ảnh hưởng

Chương 7: Thực tiễn lãnh đạo

Chương 8: Lãnh đạo ra quyết định nhóm

Chương 9: Lãnh đạo sự thay đổi trong tổ chức

Chương 10: Lãnh đạo là nghệ thuật

TẬP 2: PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG LÃNH ĐẠO

Chương 11: Kỹ năng tư duy hệ thống lãnh đạo

Chương 12: Kỹ năng xây dựng và truyền cảm hứng tầm nhìn

Chương 13: Kỹ năng phát triển chiến lược kinh doanh

Chương 14: Kỹ năng xây dựng văn hóa tổ chức

Chương 15: Kỹ năng tạo động lực

Chương 16: Kỹ năng tổ chức học tập

Chương 17: Kỹ năng truyền cảm hứng

Chương 18: Kỹ năng tạo ảnh hưởng

TẬP 3: PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG LÃNH ĐẠO

Chương 19: Kỹ năng giải quyết vấn đề 

Chương 20: Kỹ năng ra quyết định

Chương 21: Kỹ năng quản trị cảm xúc

Chương 22: Kỹ năng quản trị khủng hoảng

Chương 23: Kỹ năng thuyết trình

Chương 24: Kỹ năng thương lượng

Chương 25: Kỹ năng ứng xử và giao tiếp lãnh đạo

Chương 26: Kỹ năng quản trị rủi ro

Chương 27: Kỹ năng marketing trực tuyến

 

Để hoàn thành tập sách “Nghệ thuật lãnh đạo”, chúng tôi đã kế thừa nhiều công trình của các nhà nghiên cứu đi trước và đương thời trong lĩnh vực Khoa học lãnh đạo cũng như nhiều tổ chức, cá nhân, tham gia đóng góp, bổ sung… Chúng tôi trân trọng cảm ơn các nhà nghiên cứu có tài liệu sử dụng trong  sách “Nghệ thuật lãnh đạo” này.

Dù đã cố gắng rất nhiều trong quá trình biên soạn nhưng chúng tôi cũng không sao tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vì thế chúng tôi rất mong nhận được các ý kiến đóng góp, bổ sung của quý bạn đọc để sách “Nghệ thuật lãnh đạo” này được hoàn chỉnh hơn trong những lần tái bản sau.

Rất mong cuốn sách trở thành tài liệu hữu ích cho bạn đọc trong học tập và tham khảo. Hy vọng tài liệu này sẽ giúp bạn thay đổi cuộc đời mình theo hướng tích cực, nhằm đạt được thành công trong cuộc sống.

Thư góp ý xin gởi về địa chỉ E-mail: hungngmd1@gmail.com

Thay mặt các tác giả

Tiến sĩ Nguyễn Văn Hùng

 

 

 



Chương 11

KỸ NĂNG TƯ DUY HỆ THỐNG LÃNH ĐẠO

    Tổng quan về tư duy hệ thống

    Các thành phần cơ bản của hệ thống.

    Phương pháp tiếp cận hệ thống

    Kỹ năng tư duy hệ thống trong lãnh đạo

 “Mọi tổ chức hữu cơ đều là những hệ thống được tạo nên từ các tiểu hệ thống và ngược lại cũng là một phần của hệ thống lớn hơn.” 

 L.V. Bertalanffy (1901-1972)

“Thiên hạ đều biết là tốt, thì đã có xấu rồi; đều biết là lành, thì đã có cái chẳng lành rồi; Bởi vậy, có với không cùng sanh, khó và dễ cùng thành, dài và ngắn cùng hình, cao và thấp cùng chiều. ” 

 Lão Tử trong Đạo Đức Kinh

Quá trình giáo dục thực sự nên là quá trình học cách tư duy thông qua việc thực hành trên những vấn đề thực tế.

 John Dewey

      Trong chương này chúng ta xem xét khái quát về tư duy hệ thống; các thành phần cơ bản của hệ thống; phương pháp tiếp cận hệ thống; kỹ năng tư duy hệ thống trong lãnh đạo. Kỹ năng tư duy hệ thống trong lãnh đạo cần phải nắm bắt, hiểu và thường xuyên rèn luyện để nâng cao khả năng lãnh đạo của mình đối với tổ chức và xã hội.

11.1.    Tổng quan về tư duy hệ thống

      (1) Khái niệm tư duy hệ thống

      Một trong những thành tựu khoa học nổi bật của con người từ nửa sau của thế kỷ XX là sự ra đời và phát triển của lý thuyết hệ thống. Lý thuyết này có cơ sở xuất phát từ khoa học tự nhiên và đã được vận dụng vào phân tích xem xét các lĩnh vực xã hội, bao gồm cả kinh tế, chính trị, quan hệ quốc tế, quản lý, chính sách v.v. Tuy nhiên, hầu hết những phương pháp nghiên cứu và giải quyết các vấn đề phức hợp hiện nay đều mang tính tình thế và không hệ thống. Albert Enstein đã từng nói: “Chúng ta không thể giải quyết một vấn đề bằng chính lối tư duy đã tạo ra vấn đề đó.” Vì vậy, các vấn đề nảy sinh liên tục mà không được giải quyết một cách thỏa đáng từ việc bảo vệ môi trường tới quy hoạch thành phố. Từ đó chỉ ra rằng, xã hội nên từ bỏ cách tư duy chỉ nghĩ tới các biện pháp “đối phó tình huống”, thay vào đó tiếp cận phương pháp tư duy mới là  Tư duy hệ thống (system thinking) để mang lại kết quả lâu bền.

      Tư duy hệ thống là tập hợp các phần tử có quan hệ hữu cơ với nhau, tác động chi phối lẫn nhau theo các quy luật nhất định để trở thành một chỉnh thể (wiki). Chẳng hạn, hệ mặt trời, bộ phận nghiên cứu triển khai trong tổ chức, hệ tuần hoàn trong thân thể, hệ thống sinh thái và hệ thống xã hội…

      Tư duy hệ thống là cách nhìn toàn thể để thấy thuộc tính hợp trội của hệ thống.Ví dụ: dân chủ, bình đẳng là thuộc tính của xã hội chứ không phải thuộc tính của từng con người xã hội.

      Tư duy hệ thống là hệ thống mở. Môi trường có yếu tố điều khiển được và không điều khiển được tác động đến sinh học, sinh thái, kinh tế và xã hội. Ví dụ: kinh tế phát triển được khi xã hội ổn định, không có chiến tranh.

      Tư duy hệ thống có tính mục tiêu, có thể có nhiều mục tiêu đồng thời. Trong công việc, mục tiêu có thể là của mình, của đối tác. Không thể áp dụng mục tiêu của mình cho người khác. Hiểu mục tiêu của đối tác để “ gây ảnh đến mà cái mà mình không thể thay đổi được”

      Tư duy hệ thống có tính đa chiều. Hệ thống của tự nhiên và xã hội có những xu thế trái ngược nhau, khuynh hướng đối lập nhau không loại trừ nhau mà bổ sung cho nhau tạo nên trạng thái mới, chất lượng mới. Cái giống nhau trong những cái khác nhau là khoa học; tìm cái khác nhau trong giống nhau là nghệ thuật hướng tới cái phong cách riêng.

      Tư duy hệ thống có tính toàn thể. Quan điểm nhìn nhận vũ trụ như một toàn thể không thể tách rời. Tất cả các đơn vị cấu thành và các hiện tượng cơ bản sinh ra từ chúng đều tác động qua lại với nhau, là những thành phần hữu cơ liên thuộc lẫn nhau của cái toàn thể. Không thể tách rời giữa tâm và vật, tinh thần và vật chất, cá nhân và vũ trụ…

      Tư duy hệ thống có vòng tròn quan hệ nhân quả. Nhìn hệ thống là nhìn vòng tròn ảnh hưởng lẫn nhau, không nhìn đường thẳng để tìm ra quan hệ hỗ tương trong hệ thống.

       Tư duy hệ thống là tư duy môi trường – bối cảnh (environmental thinking, contextual thinking), tư duy toàn thể (holistic thinking) để nhìn nhận thấu đáo một sự vật dựa trên  sự thấu hiểu các mối liên hệ tồn tại giữa các hiện tượng, giữa sự vật với môi trường xung quanh thay vì chỉ chú tâm vào chi tiết của sự vật đó. Tư duy hệ thống là tư duy mạng lưới (network thinking), được tập trung vào mối quan hệ giữa các sự vật hơn là từng vật thể riêng lẻ, khuyến khích tương tác linh động giữa các cấp bậc thuộc cùng hệ thống. Tư duy hệ thống được nhìn nhận, đánh giá theo tiến trình, hay tư duy tiến trình (process thinking) vì để thay đổi kết quả, trước tiên cần phải thay đổi tiến trình dẫn đến kết quả. Bên cạnh đó, tư duy hệ thống còn là tư duy hồi quy (backward thinking), việc  kiểm tra giả thuyết, đặt ra câu hỏi hồi tiếp để đi đến tận cùng vấn đề, đây là công cụ bổ túc cho dự đoán (foresight).(https://vi.wikipedia.org/wiki/) 

       Tư duy hệ thống  là cách thức tư duy gắn liền với lý thuyết hệ thống. Cách thức tư duy này đã được chứng nghiệm trong việc xử lý các vấn đề xã hội nói chung và các thách thức lãnh đạo nói riêng trên thế giới. Tư duy hệ thống có một ý nghĩa quan trọng, giúp người lãnh đạo xây dựng tầm nhìn chiến lược, nhận thức các tính chất đặc thù của “ cái toàn thể” mà việc phân tích “cái bộ phận” nhiều khi không thể cung cấp. 

        Tư duy hệ thống  là cách thức tư duy gắn liền với lý thuyết hệ thống. Cách thức tư duy này đã được chứng nghiệm trong việc xử lý các vấn đề xã hội nói chung và các thách thức lãnh đạo nói riêng trên thế giới. Tư duy hệ thống có một ý nghĩa quan trọng, giúp người lãnh đạo xây dựng tầm nhìn chiến lược, nhận thức các tính chất đặc thù của “ cái toàn thể” mà việc phân tích “cái bộ phận” nhiều khi không thể cung cấp.

       Tư duy hệ thống là quan điểm nhìn nhận thế giới khách quan trong một thể thống nhất không thể tách rời, mà ở đó tất cả các đơn vị, yếu tố cấu thành, các hiện tượng cơ bản sinh ra từ chúng đều có mối liên hệ, tác động quan lại với nhau trong cái tổng thể.

        Trên đây chỉ là một số khái niệm trong rất nhiều khái niệm về tư duy hệ thống. Phân tích các khái niệm này cho phép chúng ta có tính khái quát hơn về tư duy hệ thống như sau: Tư duy hệ thống là quan điểm nhìn nhận thế giới khách quan trong một thể thống nhất không thể tách rời, mà ở đó tất cả các đơn vị, yếu tố cấu thành độc lập, có quan hệ, có tương tác với nhau, các hiện tượng cơ bản sinh ra từ chúng đều có mối liên hệ, tác động qua lại với nhau trong cái toàn thể phức tạp và thống nhất.

        So sánh Tư duy tuyến tính và Tư duy hệ thống

        Nhân loại đã có những bước tiến trong công cuộc chinh phục thế giới vật lý và phát triển tri thức thức khoa học thông qua phương pháp phân tích để hiểu vấn đề. Phương pháp này được hiểu là bẻ nhỏ vấn đề thành các cấu phận, nghiên cứu từng phần cô lập rồi rút ra kết luận về cái toàn thể. Loại tư duy tuyến tính và máy móc này không hiệu quả đối với thế giới ngày càng thay đổi thành một hệ thống phức tạp phải nhương chỗ cho cách tư duy hệ thống có cách tiếp cận hoàn toàn khác biệt với tư duy tuyến tính truyền thống. Thay vì chẻ nhỏ các vấn đề thành từng phần riêng biệt, nghiên cứu riêng rẽ và từ đó rút ra kết luận; tư duy hệ thống đặt sự việc, hiện tượng trong mối quan hệ tương quan lẫn nhau và mở rộng góc nhìn. Cốt lõi chính là nhìn nhận vấn đề, hiện tượng như một tổng thể, một hệ thống. Nói một cách khác, tư duy hệ thống là quan điểm nhìn nhận thế giới khách quan trong một thể thống nhất không thể tách rời, mà ở đó tất cả các đơn vị, yếu tố cấu thành, các hiện tượng cơ bản sinh ra từ chúng đều có mối liên hệ, tác động quan lại với nhau trong cái tổng thể.

       Tư duy hệ thống chính là nền tảng để xây dựng chiến lược, giúp các nhà lãnh đạo mở rộng tầm nhìn, tổ chức và phát triển những chính sách và phương pháp quản trị hiệu quả.

(2) Các đặc trưng của hệ thống 

Hệ thống là gì?

       Các hệ thống có ở mọi nơi, mọi lúc. Chẳng hạn, bộ phận nghiên cứu triển khai trong tổ chức, hệ tuần hoàn trong thân thể, một khu phố, hệ thống chiếu sáng đô thị, hệ thống đánh lửa trong xe hơi…

       Hệ thống theo định nghĩa chung nhất chỉ một tổ hợp được cấu thành từ nhiều thành phần mà trong đó tồn tại một mối quan hệ giữa những tín hiệu vào và những tín hiệu ra.

      Hệ thống là một tập hợp các phần tử liên kết với nhau một cách chặt chẽ thành một nhất thể nhằm thực hiện được một số chức năng nhất định.

      Hệ thống là một tập hợp nhóm các cấu phần độc lập, có quan hệ, có tương tác với nhau, tạo nên một toàn thể phức tạp và thống nhất.

     Thấu hiểu hệ thống “Một đội bóng đá là hệ thống gồm các thành phần: cầu thủ, huấn luyện viên, sân bóng và quả bóng. Liên kết giữa chúng là luật chơi, chiến lược của huấn luyện viên, giao tiếp giữa các cầu thủ và những định luật vật lý chi phối chuyển động của quả bóng và cầu thủ. Mục đích của đội bóng là thắng cuộc, hoặc giải trí, rèn thể lực, hoặc kiếm cả triệu đô-la, hoặc tất cả những mục đích trên.” – Donella Meadows

     Bạn luôn ở trong hoặc tương tác một hoặc nhiều hệ thống. Hệ thống có thể là gia đình bạn, có thể là đội bóng bạn đang cùng chơi, có thể là lớp học bạn đang tham gia hay doanh nghiệp bạn đang làm việc, thậm chí đơn giản chỉ là cái xe bạn đang ngồi để đi từ nơi này đến nơi khác. Rõ ràng, nếu bạn thấu hiểu hệ thống hoạt động như thế nào, bạn sẽ có một lợi thế vô cùng lớn so với những người khác.

      Nhưng cần các lưu ý về hệ thống: Khi xác định một hệ thống, điều quan trọng đầu tiên là việc đưa ra đối tượng cần khẳng định được đối tượng đó có thuộc hay không thuộc hệ thống. Đối với nhiều hệ thống, đối tượng nào thuộc hệ thống và đối tượng nào không thuộc hệ thống là vấn đề vô cùng phức tạp. Nêu rõ được liên kết giữa các phần của hệ thống. Đối với nhiều hệ thống, các phần tử của chúng có nhiều loại liên kết khác nhau, thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và với nhiều mức độ khác nhau nên việc lựa chọn những liên kết để đưa vào hệ thống là một vấn đề phức tạp.

      Mô tả hệ thống

        Mô tả hệ thống có các phần tử cơ bản sau: (i) phần tử của hệ thống; (ii) hệ thống con và sự phân cấp hệ thống; (iii) liên kết giữa các phần tử của hệ thống và tính trội của hệ thống; (iv) tính cưỡng bức của hệ thống và hệ thống bị cưỡng bức; (v) mục tiêu và chức năng của hệ thống.

(i)    Phần tử của hệ thống. Phần tử của hệ thống là thành phần cơ bản cấu tạo nên hệ thống, nó tồn tại độc lập tương đối với các phần tử khác của hệ thống và không thể chia nhỏ hơn về mặt vật lý. Việc xác định phần tử của hệ thống cách hợp lý và đúng đắn làm cho việc nghiên cứu các vấn đề về hệ thống trở nên rõ ràng. Con người không thể chia nhỏ hơn phần tử đó. Do tính chất của vấn đề nghiên cứu không cần thiết phải chia nhỏ hơn.  

(ii) Hệ thống con và sự phân cấp hệ thống. Hệ thống con là hệ thống trong đó một số phần tử liên kết với nhau tạo nên bộ phận nhất thể, bộ phận này có đầy đủ tư cách là một hệ thống song nó lại liên kết với các bộ phận khác với tư cách là phần tử để tạo nên một hệ thống. Hệ thống chứa nhiều hệ thống con là một hệ phân cấp. Tính phân cấp của hệ là một đặc trưng của độ phức tạp của hệ, số cấp càng nhiều thì độ phức tạp của hệ càng lớn.

(iii) Liên kết giữa các phần tử của hệ thống và tính trội của hệ thống.Tính trội của hệ thống là hiện tượng nhiều phần tử liên kết với nhau tạo nên một nhất thể mới nhằm thực hiện một số chức năng nhất định mà từng phần tử một không có. Sự liên kết giữa các phần tử trong hệ thống càng chặt chẽ và hợp lý bao nhiêu, tính trội của hệ thống càng tăng bấy nhiêu. Hệ thống người – máy tạo nên một nhất thể có tính trội vượt bậc nếu các phần tử trong hệ thống này liên kết một cách hợp lý và chặt chẽ.Tính trội của hệ thống làm mất đi tính yếu, tính tiêu cực của mỗi phần tử.Tính trội của hệ thống là sức mạnh của hệ thống.

(iv) Tính cưỡng bức của hệ thống và hệ thống bị cưỡng bức.

Sự liên kết giữa các phần tử trong hệ thống không chỉ tạo ra tính trội mà còn tạo ra tính cưỡng bức. Hệ thống lớn bắt buộc các hệ thống con và các phần tử của mình hoạt động đúng quy chế.Nếu quy chế hợp lý, các hệ thống con đều chấp nhận, sự cưỡng bức theo     quy chế là nguồn gốc tính trội của hệ thống. Nếu quy chế không hợp lý, một số hệ thống con phải chấp nhận thực hiện trên diện rộng và trong thời gian dài, tính trội dần dần bị trị tiêu và hệ thống trở thành hệ thống bị cưỡng bức. 

Từng bộ phận không thể quyết định tính chất của hệ thống.Ví dụ khi sờ vào chân con voi sẽ cảm giác như đang sờ vào thân cây, không thể nhận biết là đang sờ vào con voi khi không được nhìn thấy.

Trong các hệ thống phức tạp, nguyên nhân và hậu quả thường có một khoảng cách về không gian và thời gian. Chúng ta có thể hành động vì cái lợi ngắn hạn và chi phí dài hạn.

Giải pháp cho một vấn đề có thể gây ra một vấn đề khác mà kết quả không mong muốn. Chẳng hạn, “cuộc cách mạng xanh” trong kỹ thuật nông nghiệp được giới thiệu vào châu Á những năm 1960 như là một giải pháp an toàn lương thực. Nhiều thập kỷ sau đã chứng minh sự thiệt hại vì mất sự đa dạng sinh học, gia tăng việc sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, đốn gỗ, làm cho đất nhiễm mặn và bạc màu.

Hình tảng băng của mối quan hệ là một công cụ đơn giản khám phá những điều phức tạp và nguyên nhân sâu xa của một hành vi. Khi nhìn từ bên trên ta chỉ thấy được bề mặt của tảng bang hoặc các sự kiện mà không thấy được cấu trúc hay bản chất sâu xa dưới mặt nước đóng băng đó.

Càng hối thúc thì hệ thống càng chùn lại. Ví dụ: nhiều công ty mất khách hang trên thị trường. Họ tiếp thị và chi tiền cho quảng cáo nhiều hơn nhưng quên đi việc nâng cao chất lượng dịch vụ phải đi song song. Về sau, công ty sẽ lại tiếp tục mất khách hang mặc dù đã chi rất nhiều tiền.

(v) Mục tiêu và chức năng của hệ thống. Khi hình thành hệ thống, đồng thời cũng hình thành mục tiêu và chức năng của hệ thống đó. Các hệ thống máy móc không có mục tiêu, chúng chỉ có chức năng (tính năng và công dụng của máy) do các nhà thiết kế   đề ra. Đối với hệ thống tự nhiên (sinh vật nói chung và con người là sinh vật tiến hóa cao nhất): mục tiêu là sự tồn tại và phát triển của chính bản thân sinh vật.Trong các hệ thống kinh tế xã hội: hệ thống mục tiêu đa cấp

Đặc trưng cơ bản của hệ thống

       Đặc trưng là thuộc tính căn bản, ổn định vốn có bên trong sự vật. Trong hệ thống các phần tử liên kết và tương tác với nhau theo quan hệ nhân quả, nghĩa là mỗi sự thay đổi của một hay một số phần tử đều kéo theo sự thay đổi của các phần tử còn lại, tác động này có thể là trực tiếp hay gián tiếp tuỳ theo sự quan trọng, vai trò và chức năng của phần tử đó. Một hệ thống bất kỳ có những tính chất cơ bản sau: (i) mỗi hệ thống gắn liền với một hình thức tổ chức nhất định; (ii) mọi hệ thống đều có mục đích bên trong một hệ thống lớn hơn; (iii) hệ thống thay đổi trong khi đáp ứng với phản hồi; (iv) hệ thống duy trì sự ổn định bằng việc tự điều chỉnh dựa trên phản hồi; (v) mối liên hệ và quan hệ giữa các phần tử cấu thành.

(i)Mỗi hệ thống gắn liền với một hình thức tổ chức nhất định.Tính tổ chức thể hiện ở cấu trúc thứ bậc, đặc trưng cho kết cấu hình thức và phương thức hoạt động của hệ thống. Mỗi hệ thống gồm nhiều phân hệ, nhiều hệ con, nhiều phần tử hợp thành. Mỗi phân hệ, mỗi hệ con, mỗi phần tử vừa thuộc các hệ thống lớn, vừa thuộc một số hệ thống con của hệ thống đó. Bất kỳ một hệ thống nào cũng có thể là một phần tử của hệ thống loại cao hơn, đồng thời cũng có thể thuộc một hệ thống loại thấp hơn. Tất cả mọi bộ phận của hệ thống đều phải hiện diện để tổ chức thực thi mục đích của nó được tối ưu. Ví dụ: hệ thống nghiên cứu và phát triển trong tổ chức của bạn bao gồm con người, thiết bị và quy trình. Nếu loại bỏ bất kỳ một trong những cấu phần này, hệ thống này không thể vận hành được.

(ii) Mọi hệ thống đều có mục đích bên trong một hệ thống lớn hơn. Mọi hệ thống đều có mục đích bên trong một hệ thống lớn hơn. Hệ thống là một cấu trúc không xác định về điểm nhỏ nhất và lớn nhất. Mỗi yếu tố, thành phần, bộ phận là một hệ thống trong hệ thống lớn hơn và chỉnh thể của các yếu tố nhỏ hơn. Ví dụ: Mục đích của phòng nghiên cứu phát triển trong tổ chức của bạn là để sinh ra ý tưởng về sản phẩm và tính năng mới cho tổ chức.

(iii) Hệ thống thay đổi trong khi đáp ứng với phản hồi. Phản hồi là thông tin quay trở lại nguồn phát của nó để gây ảnh hưởng tới hành động tiếp theo của nơi phát. Bất kể hệ thống nào, khi đáp ứng đối với sự phản hồi đề có những thay đổi. Những thay đổi, có thể quan sát được hoặc là không quan sát được nhưng sự thay đổi vẫn diễn ra. Điều này thể hiện sự vận động thường xuyên của hệ thống. Ví dụ: rụt tay khi sờ phải vật nóng; trong hệ thống quản lý xã hội, ra một văn bản sai lập tức có các thông tin phản hồi…

(iv)Hệ thống duy trì sự ổn định bằng việc tự điều chỉnh dựa trên phản hồi

.Mỗi hệ thống là một hệ cấu trúc hoàn chỉnh, có sự ổn định tương đối. Khi có sự phản hồi, hệ thống sẽ có những thay đổi như đã nói ở trên. Tuy nhiên, sự thay đổi ở trong điều kiện bảo toàn hệ thống. Hay nói cách khác, hệ thống sẽ tự điều chỉnh để đảm bảo sự ổn định của hệ thống. Chẳng hạn, phản hồi tích cực, khẳng định; tiêu cực điều chỉnh lại quy trình… 

(v) Mối liên hệ và quan hệ giữa các phần tử cấu thành. Đặc trưng của hệ thống không phải chỉ là các mối liên hệ và quan hệ giữa các phần tử cấu thành, mà còn là sự thống nhất với môi trường, thông qua những quan hệ qua lại của chúng với môi trường.

Phân loại hệ thống

       Phân loại là khái niệm được sử dụng rất phổ biến trong các lĩnh vực hoạt động của xã hội loài người. Phân loại là sự phân chia sắp xếp các sự vật hiện tượng, khái niệm theo một trật tự nhất định ở những cấp độ nhất định dựa vào những dấu hiệu giống nhau và khác nhau giữa chúng để phân chia, sắp xếp các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội theo một trật tự nhất định tùy thuộc vào mục đích phân loại. Có nhiều cách phân loại hệ thống tùy vào các tiêu chí phân loại:

– Căn cứ vào quá trình tương tác giữa hệ thống và môi trường mà người ta chia ra: hệ thống sống (hệ thống mở) và hệ thống nhân tạo (hệ thống đóng). Hệ thống sinh thái và hệ thống xã hội con người là những hệ thống mở, các hệ thống nhân tạo như ô tô và máy giặt là các hệ thống đóng.

– Căn cứ vào khả năng vận động của hệ thống mà có thể phân ra làm ba loại hệ thống, đó là: hệ thống duy trì trạng thái, hệ thống tìm mục tiêu và hệ thống có chủ định.

   Hệ thống duy trì trạng thái có đặc điểm là có khả năng phản ứng (thụ động) với các biến đổi của môi trường để duy trì trạng thái theo một cách thức định sẵn. hệ thống loại này không có khả năng học tập để thay đổi cách phản ứng.

   Hệ thống tìm mục tiêu có thể lựa chọn phương tiện, cách thức đáp ứng (chủ động) lại các biến đổi của môi trường sao cho đạt được mục tiêu định sẵn. hệ thống loại này bao hàm khả năng duy trì trạng thái, ngoài ra còn có khả năng thích ứng, học tập theo thời gian để cải thiện hiệu quả trong việc đạt mục tiêu.

   Hệ thống có chủ định bao gồm các khả năng của cả hai hệ thống trên và hơn thế, nó có thể thay đổi mục tiêu. Hệ thống loại này không chỉ học tập , thích ứng mà còn có khả năng sáng tạo. tính chủ động hàm ý là hệ thống có khả năng lựa chọn hành động, tức có ý chí và có cả tri thức để đưa tới sự thay đổi trạng thái.

 – Căn cứ vào lịch sử tiến hóa và mức độ phức tạp của các hệ thống mà người ta chia làm ba loại: hệ thống cơ giới, hệ thống sinh học và hệ thống xã hội.

   Hệ thống cơ giới là thế giới vật chất không có sự sống: như một tòa nhà, đồng hồ, hoặc cả nhà máy. Hệ thống cơ giới là sự vận động theo những quy luật của các yếu tố cấu thành. Quá trình vận động của hệ thống cơ giới được cho là đơn giản, đó là những hoạt động đã được định trước, giống như chuyển động của một chiếc đồng hồ.

      Hệ thống sinh học là hệ thống có quá trình vận động phức tạp hơn hệ thống cơ giới. Ở hệ thống này, tính phức tạp được thể hiện gắn liền với mức độ của quá trình tương tác năng động giữa hệ thống với môi trường tự nhiên. Sự phát triển của hệ thống sinh học được vân động từ thực vật đến động vật; từ động vật chưa có hệ thần kinh trung ương cho đến đỉnh cao của sự tiến hóa là trí tuệ, bộ não của con người. Con người với não bộ là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của vật chất, là hệ thống phát triển cao nhất của hệ thống sinh học.

       Hệ thống xã hội có tính chất phức tạp nhất. Hệ thống này tồn tại dưới hính thức các nhóm, tổ chức, các tập đoàn xã hội… luôn thay đổi, tương tác với các yếu tố bên ngoài để duy trì sự tồn tại của chính hệ thống thông qua quá trình tiếp nhận, xử lý và chuyển hóa các nguồn lực, đồng thời cung cấp lại sản phẩm cho môi trường bên ngoài, Mỗi thành tố của hệ thống xã hội có tính độc lập tương đối và phụ thuộc lẫn nhau, đồng thời chịu tác động của yếu tố bên ngoài. Sự khu biệt hệ thống chỉ mang tính tương đối theo tư duy con người. Một hệ thống có thể phân thành các hệ thống nhỏ  tương đối độc lập có mục tiêu đặc thù và thực hiện một số chức năng riêng biệt nhưng không tách rời khỏi mục tiêu chung của  hệ thống. 

11.2.    Các thành phần cơ bản của hệ thống

    Trong nghiên cứu hệ thống đã chỉ ra bốn thành phần cơ bản, đó là: môi trường, hệ thống, phản hồi và đáp ứng.

(i)Môi trường (environment): Môi trường là một tổ hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh bên ngoài của một hệ thống hoặc một cá thể, sự vật nào đó. Chúng tác động lên hệ thống này, xác định xu hướng và tình trạng tồn tại của nó. Môi trường có thể coi là một tập hợp, trong đó hệ thống đang xem xét là một tập hợp con. Tập hợp các yếu tố quy định, ảnh hưởng chi phối hệ thống một cách khách quan. Ranh giới phân biệt giữa hệ thống và môi trường là tùy theo cách phân định. Môi trường cần được phân biệt với hệ thống do tính độc lập và tính ảnh hưởng đối với hệ thống của chúng. Sự xác định ranh giới giữa hệ thống với môi trường không phải khi nào cũng dễ dàng. Chính sự phức tạp và đan xen của hệ thống dẫn đến sự phức tạp và khó khu biệt của môi trường hệ thống. Theo các nghiên cứu thì môi trường là yếu tố lớn hơn hệ thống. Quy định chi phối tới hệ thống. Ví dụ: một công ty, một lớp học luôn chịu sự chi phối của môi trường tự nhiên có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và môi trường kinh tế – xã hội. Hay nói cách khác là hệ thống nằm trong môi trường của hệ thống lớn hơn.Ví dụ: một phòng, ban của một đơn vị chịu sự chi phối của môi trường tổ chức. Sự phân biệt giữa hệ thống và môi trường có ý nghĩa quan trọng trong việc xem xét các quá trình tương tác theo 3 yếu tố: đòi hỏi (đầu vào – input), xử lý các đòi hỏi và các quyết định đáp ứng (đầu ra – output).

(ii)Hệ thống (system): Hệ thống là tập hợp các phần tử có quan hệ hữu cơ với nhau, tác động chi phối lẫn nhau theo các quy luật nhất định để trở thành một chỉnh thể…Từ đó xuất hiện thuộc tính mới gọi là tính trồi của hệ thống mà từng phần tử riêng lẻ không có hoặc có không đáng kể. Mỗi hệ thống đều thuộc một hệ thống lớn hơn và bản thân nó được cấu thành từ các hệ thống nhỏ (sub –  system) có tính độc lập tương đối, có mục tiêu riêng và thông qua thực hiện mục tiêu riêng để thực hiện mục tiêu chung của hệ thống. Tương tự, bản thân hệ thống với các tiểu hệ thống thường nằm trong một đại hệ thống (supra –  system).

(iii) Phản hồi (feedbacks): Hiệu ứng phản hồi, gọi tắt phản hồi, là khái niệm cơ bản của thuyết điều khiển, chỉ quá trình lấy cái ra của hệ thống trở về cái vào và thay đổi cái vào bằng phương thức nào đó, giữa chúng nó hình thành một chuỗi nguyên nhân – kết quả xoay vòng, tiến tới ảnh hưởng chức năng của hệ thống. Phản hồi là cơ chế đảm bảo sự vận hành của hệ thống và đảm bảo sự “giao tiếp”  phản ứng của hệ thống đối với môi trường đảm bảo cho hệ thống thay đổi, thích nghi với môi trường. Phản hồi là thông tin quay trở lại nguồn phát của nó để gây ảnh hưởng tới hành động tiếp theo của nơi phát. Phản hồi chỉ sự tương tác bên trong của hệ thống khiến hệ thống thay đổi và thích nghi với môi trường. Đó cũng có thể coi là các đòi hỏi từ bên trong của hệ thống. Sự phản hồi được bộc lộ qua các quá trình đáp ứng với đòi hỏi của môi trường, cũng như sự phản ứng với các kết quả đầu ra của hệ thống. Nó thể hiện sự tương tác bên trong và khả năng tự điều chỉnh của hệ thống. Sự phát triển và sự vận hành của hệ thống phụ thuộc rất nhiều vào mạng lưới thông tin phản hồi này.

 

(iv)Đáp ứng (response): Đáp ứng là chức năng của hệ thống trong việc thực hiện hóa sự tồn tại của một hệ thống nhất định. Mỗi hệ thống tồn tại đều có một vai trò đối với hệ thống lớn hơn, tức là “mọi sự tồn tại đều hợp lý”. Cấu trúc cơ chế của hệ thống như trên đề cập đã xác định từ việc thực hiện sự đáp ứng của hệ thống đối với các đòi hỏi của môi trường bên ngoài. Các đòi hỏi này chính là sự biểu đạt các chức năng cần phải được thực hiện đáp ứng của hệ thống còn được thể hiện ở động thái (dynamics) của hệ thống là sự biến động của hệ thống như kết quả tương tác giữa các thành tố của bản thân hệ thống và giữa nó với môi trường bên ngoài. Động thái của hệ thống có sự biến thiên rất lớn từ những thay đổi ở cấp độ hành vi con người cho đến sự biến đổi về cấu trúc và chức năng của cả hệ thống. 

Các giai đoạn phân tích  hệ thống.

(i)Xác định rõ những yếu tố, những bộ phận bên trong hệ thống với những cái bên ngoài hệ thống (môi trường), các yếu tố, các bộ phận cấu thành hệ thống.

(ii)Phân chia hệ thống thành các hệ con, phân tích vị trí, chức năng của chúng trong hệ thống, chú ý đến thứ bậc trong cấu trúc của hệ thống.

(iii)Nghiên cứu đầy đủ những mối liên hệ giữa các yếu tố, hệ con của hệ thống và những mối liên hệ giữa hệ thống với môi trường.

(iv)Nghiên cứu phương thức tác động qua lại giữa các yếu tố, bộ phận cấu thành hệ thống, giữa hệ thống với môi trường nhằm tìm ra các đặc trưng (thuộc tính) của hệ thống.

(v)Làm rõ quá trình điều khiển của hệ thống để nhận thức hoạt động, nhất là hoạt động hướng đích của hệ thống.

(vi)Phân tích hệ thống không chỉ nhằm nghiên cứu cấu trúc mà còn nghiên cứu cả quá trình phát triển của hệ thống

Thiết kế hệ thống là việc vạch ra kiến trúc của một hệ thống kỹ thuật (cả phần cứng và phần mềm), bao gồm việc xác định các yếu tố và thành phần, chức năng của chúng, mối liên hệ giữa chúng với nhau … để tạo lập nên một hệ thống thống nhất nhằm thực hiện một công việc dự định..

11.3.Phương pháp tiếp cận hệ thống

Có 3 phương pháp chính để nghiên cứu hệ thống:

(i) Phương pháp mô hình hoá: Phương pháp mô hình hoá là phương pháp tái hiện những đặc trưng của đối tượng nghiên cứu bằng một mô hình khi biết rõ được 3 yếu tố là đầu vào, đầu ra và cấu trúc hệ thống. Mô hình là sự diễn đạt trừu tượng hoá các mối liên kết giữa các phần tử của hệ thống theo mục tiêu nghiên cứu đặt ra đối với hệ thống đó. Mô hình là sự mô tả hệ thống qua các đặc trưng cơ bản của hệ nhờ kinh nghiệm và nhận thức của con người. Mô hình bao gồm một luận đề, một công thức, một sơ đồ, một chương trình máy tính. Ưu điểm và hạn chế: Dễ thực hiện, ít tốn kém. Đòi hỏi người nghiên cứu phải có kiến thức chuyên môn vững.

(ii) Phương pháp hộp đen: Đây là phương pháp nghiên cứu hệ thống khi biết rõ yếu tố đầu vào, đầu ra, song không biết yếu tố cấu trúc của hệ thống (đó là một hộp đen). Nhiệm vụ nghiên cứu là phải xác định rõ mối quan hệ giữa đầu ra với đầu vào của hệ thống và không nhất thiết phải tìm ra cấu trúc của hệ thống. Phương pháp hộp đen được áp dụng rất hiệu quả trong thực tế vì có nhiều hệ thống mà cấu trúc của chúng rất mờ hoặc rất phức tạp, do đó việc nghiên cứu sâu vào cấu trúc là không thể tiến hành được hoặc là quá tốn kém.

(iii) Phương pháp tiếp cận hệ thống: Tiếp cận hệ thống là bước đầu tiên trong việc xem xét nghiên cứu hệ thống và nhằm tìm hiểu cấu trúc, đặc điểm cũng như các vấn đề cụ thể khác có liên quan. Nếu không tìm ra được cấu trúc của hệ thống thì các bước tiếp theo trong quá trình nghiên cứu và điều kiện hệ thống không thể thực hiện được. Nhiệm vụ nghiên cứu là phải phân tích hệ thống ban đầu thành một loạt các phân hệ nhỏ hơn, có mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau dù có thể là yếu nhưng không thể bỏ qua.

Các yêu cầu của phân tích hệ thống:

Trong hệ thống các phần tử liên kết và tương tác với nhau theo quan hệ nhân quả, nghĩa là mỗi sự thay đổi của một hay một số phần tử đều kéo theo sự thay đổi của các phần tử còn lại, tác động này có thể là trực tiếp hay gián tiếp tuỳ theo sự quan trọng, vai trò và chức năng của phần tử đó. Không được cắt rời từng phân hệ, từng phần tử ra khỏi hệ thống mà phải luôn luôn chú ý đến tác động của chúng trở lại hệ thống.

Do hệ thống là một chỉnh thể, có tính trội do đặc trưng toàn thể tạo nên và phát triển từ phức hợp của những quan hệ tương tác bên trong của hệ thống với môi trường bên ngoài, nên cần chú ý tới tính trội dù có thể là rất yếu. Khi sắp xếp các phần tử của hệ thống theo một cách thức nào đó sẽ tạo nên tính trội. Đó là khả năng vượt trội, mới mẻ của hệ thống mà khi các phần tử đứng riêng rẽ thì không thể tạo ra được. Tính trội là đặc tính quan trọng nhất của hệ thống. Tính trội chỉ có ở một cấp hệ thống mà không có ở các hệ thống cấp thấp hơn nó hoặc các thành tố tạo ra hệ thống.

Hệ thống chỉ phát triển khi là hệ mở, nên khi xem xét phải đặt hệ thống trong một hệ thống khác lớn hơn.

Các hệ thống phức tạp là những hệ có cơ cấu phân cấp nên dù các phân hệ có tương tác với nhau song chúng phải được đối xử như một phân hệ tương đối độc lập, và chính nó cũng được tạo nên từ các phân hệ nhỏ hơn. Các hệ thống phức tạp có thể có những cơ cấu khác nhau tùy theo gốc độ quan sát. Nói một cách khác là ở hệ thống phức tạp có sự chồng chất các cơ cấu. Vấn đề là phải kết hợp các cơ cấu khác nhau đó để tìm ra các nét đặc trưng điển hình của hệ thống.

Phương pháp phân tích hệ thống đòi hỏi sự sáng tạo trong nghiên cứu.

 

Trình tự thực hiện phương pháp phân tích hệ thống

(i)Xác định mục tiêu là nội dung quan trọng đầu tiên cần nghiên cứu vì xác định mục tiêu không đúng sẽ ảnh hưởng tới các bước tiếp theo.

(ii)Xác định môi trường: Phân biệt cái gì thuộc về hệ thống nghiên cứu và cái gì không thuộc về hệ thống nghiên cứu mà thuộc về môi trường.

(iii)Phân tích nguồn lực: Nguồn lực là tất cả các yếu tố và phương tiện mà hệ thống sử dụng để thực hiện mục tiêu của mình.

(iv)Phân tích cấu trúc: Phân chia hệ thống thành các phân hệ nhỏ hơn để nghiên cứu chi tiết. Việc phân chia đòi hỏi sự sáng tạo khoa học và nghệ thuật.

(v)Nghiên cứu hệ thống trong toàn thể: Nghiên cứu các khả năng phối hợp, khả năng liên kết các phần tử thành hệ thống.

11.4.Kỹ năng tư duy hệ thống trong lãnh đạo

(1) Tư duy là gì?

       Tư duy là sự phản ánh quá trình nhận thức ở trình độ cao một cách khái quát, tích cực, gián tiếp và sáng tạo về thế giới qua các khái niệm, suy lý và phán đoán. Đặc điểm của tư duy là sự khái quát hóa, trừu tượng hóa để hình thành khái niệm, lý thuyết và hoạt động nhận thức sáng tạo. Có thể nói, trừu tượng hóa và khái quát hóa luôn song hành với nhau.

        Nói chung, xét về bản tính, tư duy là một quá trình sáng tạo giúp con người hình thành nên tri thức biết nhận viết vấn đề và cách giải quyết những vấn đề đó. Theo đó, nhận thức cảm tính và tư duy trừu tượng khác nhau về chất, bởi tư duy là quá trình phản ánh hiện thực khách quan. Mối quan hệ giữa ý thức và vật chất cũng chính là giữa tư duy và tồn tại. 

      Tư duy phản ánh những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật giữa các thành phần, bộ phận cấu thành sự vật; giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác. Đó  là những mối liên hệ bên trong, tất yếu, những quan hệ không đổi trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định, có thể biểu thị dưới dạng mô hình, công thức khái quát. 

      Tư duy nảy sinh do yêu cầu của thực tiễn cuộc sống cải tạo tự nhiên, xã hội và cải tạo chính bản thân con người. Tư duy phản ánh những cái mới, những cái trước đó ta chưa biết. Nhờ có tư duy mà kho tàng nhận thức của loài người ngày càng đồ sộ, xã hội loài người luôn phát triển, thế hệ sau bao giờ cũng tiến bộ và văn minh hơn thế hệ trước.  

      Tư duy là phạm trù triết học dùng để chỉ những hoạt động của tinh thần, đem những cảm giác của người ta sửa đổi và cải tạo thế giới thông qua hoạt động vật chất, làm cho người ta có nhận thức đúng đắn về sự vật và ứng xử tích cực với nó. Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, tập 4. 

      Trên đây chỉ là một số khái niệm trong rất nhiều khái niệm về tư duy. Phân tích các khái niệm này cho phép chúng ta có tính khái quát hơn về tư duy như sau: Tư duy là một quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan mà trước đó con người chưa biết.

(2)Tư duy hệ thống

       Trong những hệ thống phức tạp như xã hội con người, nhân và quả không phải lúc nào cũng “gắn liền nhau” mà thường cách xa nhau trong thời gian và không gian. Do đó, có lúc ta dễ tạo ra cái lợi trước mắt mà khó thấy được tác hại lâu dài về sau. Tư duy hệ thống cung cấp một viễn cảnh mới mạnh mẽ, một ngôn ngữ riêng và một tập các công cụ có thể dùng để đề cập tới những vấn đề hóc búa nhất trong cuộc sống và công việc thường ngày. Tư duy hệ thống giúp ta thấy bức tranh chính xác hơn của hiện thực, khuyến khích ta suy nghĩ sâu sắc hơn về các vấn đề, và đề ra những giải pháp với tầm nhìn xa rộng, tổng quan và sâu sắc hơn.

      Tư duy hệ thống là phương pháp tư duy hướng đến mở rộng tầm nhìn để hiểu mối liên hệ tồn tại giữa mọi sự vật, nhận thức được nguyên nhân sâu xa ẩn dưới bề nối của những hiện tượng tưởng chừng như riêng rẽ.

       Tư duy hệ thống là cách hiểu thực tế nhấn mạnh tới mối quan hệ giữa các phần của hệ thống, thay vì chỉ bản thân các bộ phận. Dựa trên lĩnh vực nghiên cứu có tên là tính năng động hệ thống, tư duy hệ thống có giá trị thực tế dựa trên nền tảng lý thuyết chắc chắn.

      Trên đây chỉ là một số khái niệm trong rất nhiều khái niệm về tư duy hệ thống. Phân tích các khái niệm này cho phép chúng ta có tính khái quát hơn về tư duy hệ thống như sau: Tư duy hệ thống là quan điểm nhìn nhận thế giới khách quan trong một thể thống nhất không thể tách rời, mà ở đó tất cả các đơn vị, yếu tố cấu thành, các hiện tượng cơ bản sinh ra từ chúng đều có mối liên hệ, tác động quan lại với nhau trong cái tổng thể.

       Đặc điểm cơ bản của tư duy hệ thống

      Tư duy hệ thống có đặc điểm cơ bản là: cách nhìn tổng thể, có tính đa chiều và tính có mục tiêu. Trong đó, đặc điểm chủ yếu của tư duy hệ thống là ở cách nhìn toàn thể và do cách nhìn toàn thể mà thấy được những thuộc tính hợp trội của hệ thống. Tính có mục tiêu là một đặc điểm rất quan trong các hệ thống phức tạp.      

     Tư duy hệ thống đòi hỏi nhìn nhận sự vật, hiện tượng trong chính thể – hệ thống. Tư duy hệ thống thể hiện quá trình tư duy khi nhìn nhận, xem xét sự vật và hiện tượng như là một chỉnh thể được tạo thành trên cơ sở những thành phần và các mối liên hệ giữa chúng. Tư duy hệ thống hình dung vũ trụ là một toàn thể hệ thống nhất, không tách rời, luôn vận động, thay đổi và thống nhất trong chính thể của nó. Bao hàm của hệ thống vũ trụ là các sự vật, hiện tượng cụ thể, con người, tự nhiên, xã hội đều là những phần tử.

     Tư duy hệ thống gắn liền với tưởng tượng, sáng tạo. Tư duy hệ thống thể hiện quá trình tư duy của con người không chỉ được thể hiện qua lăng kính của người quan sát thu thập các sự kiện và tiến hành tư duy mà đòi hỏi người tư duy phải có khả năng tưởng tượng để hóa thân vào hệ thống xem xét, cảm nhận sự vận động của hệ thống, tiếp nhận thông tin từ hệ thống và tiến hành tư duy.

    Tư duy hệ thống là cơ sở của đổi mới tư duy. Tư duy hệ thống là cơ sở giải quyết những hạn chế trên, giúp con người không ngừng đi sâu vào bản chất của hệ thống, xác định đúng đắn hơn, sâu sắc hơn sự tương tác giữa các thành phần hệ thống, đề ra những giải pháp có tính trách nhiệm cao đối với sự phát triển xã hội theo hướng bền vững.

     


[ad_2]
Source link

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *