SUY NGẪM VỀ THÓI ĐỜI, LẼ SỐNG TỪ XƯA ĐẾN NAY VÀ DẠY CÁCH LÀM NGƯỜI

[ad_1]

 

Người ta thường thở dài và nói: “Đời là thế!”. Cũng với ý đó, người Pháp nói: “C’est la vie!”, còn người Anh nói: “It’s life”. Khi nói câu này, có lẽ người ta đã nhận ra điều gì đó bí ẩn mà không thể hiểu và “đành” chấp nhận, dù muốn hay không muốn, vừa mặc nhiên vừa minh nhiên.

Những người trung niên trở lên hẳn là có thể từng nghe đến tên Mặc Thế Nhân (*), nhất là những người yêu thích âm nhạc, hoặc không biết ông là tác giả một số ca khúc phổ biến (ngày nay vẫn được hát) thì cũng đã từng nghe hoặc hát nhạc của ông. Một trong số ca khúc nổi tiếng của ông là ca khúc “Thói Đời”. Một tựa đề đầy “chất đời”.

 

Ca khúc này nói về cái “đời là thế” của thế thái nhân tình đầy bạc bẽo! Ca từ giản dị mà thâm thúy, giai điệu không cầu kỳ mà vẫn “đẹp” và tạo sự lắng đọng trong tâm hồn.

Đoạn MỘT: “Đường thương đau đầy ải nhân gian, ai chưa qua chưa phải là người”. NS Mặc Thế Nhân viết ca khúc này khi ông còn trẻ, thế mà ông đã có “tầm nhìn” vừa sâu vừa rộng để có thể “nghiệm” được “sự đời” như thế. Sinh ra ai cũng bật khóc như “thấy trước” được “đường thương đau đầy ải nhân gian” vậy! Ông xác định: “Ai chưa qua chưa phải là người”, như một lời tiên tri vậy. Quả thật, chính đau khổ mới khiến người ta “nên người”, chính gian nan vất vả mới làm người ta thành nhân, chứ không phải sự giàu sang sung sướng.

Ông nhận xét rất thực tế: “Trong thói đời cười ra nước mắt, xưa trắng tay gọi tên bằng hữu, giờ giàu sang quên nghĩa tâm giao, còn gian dối cho nhau”. Cuộc đời có những tình huống khiến người ta “cười ra nước mắt”. Không chỉ “giàu đổi bạn, sang đổi vợ”, mà người ta còn giả dối và lọc lừa nhau bằng mọi thủ đoạn bỉ ổi, như ngày nay người ta mỉa mai: “Lương tâm không bằng lương tháng”.

Đoạn HAI: “Người yêu ta rồi cũng xa ta nên chung thân ta giận cuộc đời. Đôi mắt nào từng đêm buốt giá, bên chiếu chăn tình xa nhịp thở, tiền đổi tay khi rũ cơn mê để chua xót trên lối về”.

Ngay cả trong tình yêu cũng vậy thôi: “Người yêu ta rồi cũng xa ta nên chung thân ta giận cuộc đời”. Người yêu, vợ hoặc chồng còn bỏ ta thì còn ai không bỏ ta? Nghĩa là ai cũng bỏ ta, dù “bỏ” theo nghĩa đen hay nghĩa bóng. Vì thế mà người bị tình phụ có thể “hận đời”, thậm chí có những người tuyệt vọng đến nỗi quyên sinh. Buồn lắm, buồn đến nỗi “đôi mắt từng đêm buốt giá, bên chiếu chăn tình xa nhịp thở”, xót xa lắm, vì “tiền đổi tay khi rũ cơn mê” rồi thì chỉ còn một mình “chua xót trên lối về”. Đau lắm!

Đoạn BA: “Rượu trần ai gội niềm cay đắng, những suy tư in đậm đường hành, mình còn ai đâu để vui khi trót sa vũng lầy nhân thế, cỏ ưu tư, muộn phiền nên xám môi”.

Đau lòng quá nên người ta muốn tìm quên trong men rượu: “Rượu trần ai gội niềm cay đắng”, mặc cho “những suy tư in đậm đường hành”. Bởi vì “mình còn ai đâu để vui khi trót sa vũng lầy nhân thế”. Chắc hẳn ai cũng đã từng hơn một lần sa vào “vũng lầy nhân thế”, dù mức độ khác nhau và mỗi “vũng” cũng khác nhau. Chính lúc này mới cần “bản lĩnh sống”. Nếu thiếu bản lĩnh này, người ta sẽ sa đà vào nhiều thứ nguy hiểm, nguy hiểm đến nỗi mình cũng khó biết mình đang bị nguy hiểm. Con người quá yếu đuối. Người vui cảnh cũng vui, người buồn cảnh cũng buồn, thế nên “cỏ ưu tư” – tức là mình ưu tư mà thấy cỏ cũng như đồng cảm, đến nỗi “muộn phiền nên xám môi”. Suy nghĩ quá và buồn quá nên mất ngủ, mất ngủ nên mắt thâm quầng, tất nhiên “xám môi” là lẽ đương nhiên.

Đoạn BỐN: “Bạn quên ta tình cũng quên ta, nên chân đêm thui thủi một mình. Soi bóng đời bằng gương vỡ nát, nghe xót xa ngời lên tròng mắt, đoạn buồn xa ta đã đi qua ngày vui tới ta vẫn chờ”.

Khi chúng ta sa cơ thất thế, chẳng ai còn muốn quen ta chứ nói chi muốn gần ta. Một mình bước đi lầm lũi, đi không ai biết, về chẳng ai hay: “Chân đêm thui thủi một mình”. Mình nhìn ta, mình nhìn bóng, tự độc thoại giữa bốn bức tường vắng lặng: “Soi bóng đời bằng gương vỡ nát”, thế nên nhiều lúc “nghe xót xa ngời lên tròng mắt”, và con người vẫn muốn thoát khỏi vũng lầy đó: “Đoạn buồn xa ta đã đi qua ngày vui tới ta vẫn chờ”. Vì thế mà người ta có thể gượng đứng dậy mà tiếp tục sống… Nếu vấp ngã hãy tự mình đứng dậy. Cuộc đời này luôn đầy rẫy chông gai. Ngẩng cao đầu và bước tới tương lai. Đừng trông mong bất kỳ ai giúp đỡ…

 

Trong bài nhạc “Thói đời”, thói đời được hiểu là nhân tình thế thái của tương quan xã hội, “Ôi thói đời cười ra nước mắt, khi trắng tay gọi tên bạn hữu, giờ giàu sang quên kẻ tâm giao”. Tính chất không giữ được cái hậu và không biết ơn đền ơn trong tương quan xã hội được gọi là thói xấu của cuộc đời. Và như vậy, ý nghĩa thói đời được giới hạn trong phạm vi rất hạn hẹp nên gọi là thói xấu.

Thói đời được hiểu là những thói quen về hưởng thụ danh lợi như một nhu cầu; thói quen dính đến con đường tội lỗi như một cạm bẫy thói quen mà đôi lúc nó như bản tính, lâu đến độ người ta không thấy nó có vấn đề nữa và xem nó là chuyện bình thường.

SUY NGẪM VỀ THÓI ĐỜI, LẼ SỐNG TỪ XƯA ĐẾN NAY VÀ DẠY CÁCH LÀM NGƯỜI.

Vậy thói đời mà ta thường thấy trong cuộc sống là gì? Xin tạm kể mấy thói chủ yếu.


Một là, là thói nói mỗi nơi mỗi khác, nói trong cuộc họp, trong phòng làm việc không giống như nói ở nhà, ở quán nước…. Có lẽ vì có sự khác nhau về đối tượng và môi trường đối thoại. Những người có mặt trong cuộc họp, trong phòng làm việc là đối tượng áp đặt. Môi trường ở đó là môi trường nghiêm túc, “một lời nói một đọi máu”, nên ăn nói phải cẩn thận, phải khép mình vào kỷ cương, nền nếp, dù trong lòng nghĩ khác nhưng bên ngoài phải nói đúng ý cấp trên, đúng nội dung văn bản. Còn những nơi khác, thì đối tượng thường là cùng hội cùng thuyền, thuộc diện ngoài vòng cương tỏa, thuộc diện tự do chủ nghĩa nên chẳng cần giữ gìn làm chi, có gì trong bụng nhất là phần đen tối tuôn ra hết.

Hai là, là nói xả hơi, mặc đời khi về hưu. Cái ghế là cuộc sống, là vị trí xã hội cần phải được củng cố, cần phải bảo đảm an toàn. Làm gì, nói gì cũng phải cân nhắc, không được lệch dù chỉ là một ly. Hợp ý trên, được lòng dưới là khuôn vàng thước ngọc, là tiêu chí phấn đấu của không ít cán bộ quản lý còn đầu óc cơ hội. Và chính những người đó khi về hưu, mọi cơ chế ràng buộc không còn nữa. Họ nói cho sướng mồm, phê phán cán bộ lãnh đạo đương chức hết lời, quy kết chụp mũ đủ những tội tày đình, hận đời chửi hậu thế. Họ mang nặng tư tưởng công thần, không theo pháp luật, bất chấp cả mọi quy chế của địa phương nơi mình ở, trở nên lực cản cho biết bao cấp ủy phường xã…

Ba là, là thói trở cờ thay đổi thái độ đối với thủ trưởng đã thôi chức hoặc về hưu. Tất nhiên mọi sự biến đổi bao giờ cũng đi kèm theo những diễn biến tương ứng tự nhiên. Điều đáng nói ở đây là sự thay đổi theo kiểu không trong sáng. Khi thủ trưởng đang ngồi ở ghế lãnh đạo thì một sếp hai sếp, làm gì và chuyện trò với ai cũng luôn nhắc đến lệnh của sếp. Lời sếp nói ra, bất luận sai đúng, hợp hay không hợp với lòng người, đều được coi là là vàng lời ngọc. Nhưng đến khi sếp đó thôi chức, chuyển sang làm chuyên viên hoặc về hưu thì lập tức những con người đó thái độ khác hẳn. Từ lời chào, cái bắt tay cho đến sự đối đáp đều mất hết tính chất kính trọng, tình nghĩa.

Bốn là, là gió chiều nào theo chiểu đó, không cần xác định rõ lẽ phải ở đâu, chân lý đang nghiêng về ai.  Thói đời đó còn dẫn người ta đến một kiểu trò chuyện “đầu lưỡi”, ngồi với ai thì nói chuyện theo tạng của người đó. Ngồi với người hay có ý mới, ý khác người thì luôn ca ngợi tư tưởng tìm tòi sáng tạo, ca ngợi đường lối tư duy, ngồi với người bảo thủ, ngại thay đổi thì lại luôn mồm phê phán tư tưởng phiêu lưu, thiếu cẩn trọng, thiếu chín chắn.

Năm là, là thói ghen đố kỵ. Niềm vui của người này chưa hẳn là niềm vui của người khác, thậm chí thắng lợi của bạn mình có khi dễ bị coi là nguyên nhân thất bại của mình hoặc bị coi là cản trở cho sự phát triển của mình. Một tài năng mới xuất hiện, một sự nổi trội về mặt khả năng của ai đó chưa hẳn đã được tất cả hoan nghênh, nhất là những người có điều kiện và hoàn cảnh tương tự và những đương sự nói trên.

Tuy nhiên, cần phải nói rõ một điều khi ta gọi nó là thói đời là khi nó còn ở mức nhẹ nhàng, nhiều người có, còn khi ai đó đã nâng cái thói đời trên lên đến mức nặng nề, có nguy cơ gây thảm họa thì không còn là thói đời nữa, nó đã trở thành bệnh cấp tính, phải chữa chạy, nghĩa là phải xử lý kịp thời.

Thói đời, đúng là một căn bệnh, một căn bệnh nan y, tồn tại qua nhiều thế hệ. Hiện nay khá nhiều người bi quan khi nhắc đến thói đời không tin là bệnh này có thể giảm bót trong tương lai, nhất là nền kinh tế thị trường đang ngày càng phát triển. Có người khi phê phán nặng lề cái bệnh đời thể hiện ở một người bạn nào đó đã giật mình dừng lại vì mơ hồ cảm thấy nó tồn tại trong mình cũng chẳng kém.

Song, không ít người, nhất là giới trí thức vẫn tin là con người ngày càng hướng thiện hơn, sống trong sáng đẹp đẽ hơn, nhất là khi nền dân trí được nâng cao, nền văn minh thời đại được lan tỏa. Cái bệnh đời nói trên cũng có lúc phải biến dạng và mất dần. Nó là thói đời mà đời không chấp nhận.

  

(*) Mặc Thế Nhân là một nhạc sĩ nổi tiếng ở Việt Nam trước năm 1975 với nhiều ca khúc tình cảm đặc sắc. Được biết tới nhiều nhất là 10 ca khúc mang tựa đề Tương Tư của ông, trong đó nổi bật hơn cả là bài “Tương Tư 4” được trình bầy bởi nhiều giọng ca nam nổi tiếng như Elvis Phương, Sĩ Phú,… Ngoài những bản tình ca, ông còn sáng tác những nhạc phẩm mang âm điệu quê hương. Ngoài phần là một nghệ sĩ, ông còn nghiên cứu về tâm linh.

NS Mặc Thế Nhân tên thật là Phan Công Thiệt, sinh năm 1939 tại Gia Định, trong một gia đình trung lưu. Theo Tây học, ông đã có một tâm hồn nghệ sĩ ngay từ thuở còn thơ ấu. Bắt đầu học nhạc lúc 17 tuổi với các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Hùng Lâm, Nguyễn Cầu, Nguyễn Quý Lãm, Xuân Bình, tại trường Ca Vũ Nhạc Phổ thông. Ròng rã hai năm trời thụ mãn, ông ra trường và gia nhập ban Hoa Niên. Ngoài ra ông còn hợp tác với ban đàn dây Xuân Bình để trình diễn ở đài phát thanh. Thời gian này ông đã hoạt động văn nghệ nhiều nhất.

Nhạc phẩm đầu tay của ông là bản “Trăng Quê Hương”” (1958), sau đó là bản “Vui Tàn Ánh Lửa” (1959). Ông cũng đã dạy nhạc lý cho một trường tư thục tại Saigon và rèn luyện cho một vài ca sĩ nổi tiếng thời đó. Ông còn là một ký giả tân nhạc kịch trường, cộng tác với nhật báo Lẽ Sống và tuần báo Bình Dân, với các bút hiệu Mộng Thu và Giang Ái Sĩ.

Năm 1960, ông đã xuất bản nhạc phẩm “Rồi Một Ngày”, đó là tiếng nói lo âu của một đôi tim trong lứa tuổi yêu đương, lúc nào cũng lo sẽ có ngày phải xa cách. Tiếp theo là các nhạc phẩm Xích Lại Gần Anh Tí Nữa, Thế Hãy Còn Xa Lắm, và Tiếng Vạc Sầu Đêm. Ngoài việc sáng tác nhạc, ông còn là một kịch sĩ và là một Khẩu cầm thủ hữu hạng lúc bấy giờ.

Ngoài các nhạc phẩm mang nặng tính chất lãnh mạn trữ tình, ông còn sang tác những nhạc phẩm ca tụng kiếp sống hải hồ với những chuyện tình thơ mộng như trong các ca khúc Người Em Hải Đảo, Sầu Đất Tổ, Sầu Nhân Thế, Cho Vừa Lòng Em, Đừng, Ngày Xuân Vui Cười, Trả Lại Anh,…

 

 


[ad_2]
Source link

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *