[ad_1]
Chúng ta thường dùng từ đồng tính hay giới tính thứ ba để chỉ những người có quan hệ yêu đương và tình dục đồng giới. Đồng tính nam gọi là gay, đồng tính nữ gọi là lesbian (les).
Dù cộng giới tính thứ ba chỉ chiếm 3 – 5% dân số, họ là những người làm việc bình thường, có đóng góp cho xã hội, có cảm xúc, muốn được yêu đương nhưng thường bị những người dị tính (quan hệ yêu đương bình thường) coi thường, xa lánh… Nếu chúng ta có cái nhìn đúng đắn hơn, sẽ giúp họ dễ dàng hòa nhập, không cần che giấu; còn ngược lại thì họ phải rút vào bí mật và luôn tự ti, mặc cảm.
Hầu hết các bậc cha mẹ đều sốc, không muốn chấp nhận sự thật. Bản thân các bạn ấy cũng thấy mình “khác người”, lo lắng sẽ bị kỳ thị. Tại sao vậy? Viện nghiên cứu kinh tế – xã hội và môi trường (ISEE) khảo sát trực tuyến trên 3.200 người đồng tính nam tại VN cho thấy: 20% đồng tính nam bị bạn bè bỏ rơi; 15% bị cha mẹ chửi mắng, đánh đập; 95% nghe nói đồng tính là cho rằng họ không bình thường, là “biến thái”. Vì thế 86% đồng tính nam phải che giấu xu hướng tình dục, 7% cưới vợ để làm bình phong hoặc để làm vừa lòng cha mẹ. Có nhiều người bàn luận hoặc kể chuyện tiếu lâm hàm ý coi thường người đồng tính. Chính lối nghĩ, phản ứng như vậy làm tổn thương tâm lý, sức khỏe; lại thêm cha mẹ chửi mắng, đánh đập có thể dẫn đến nguy cơ họ tự tử hay sa vào ma túy. Chúng ta thường quen nếp nghĩ: những gì của số đông, thuộc về số đông mới là đúng, là qui luật, vì thế nên có thành kiến với người đồng tính bởi họ không thuộc về số đông.
Do đâu?
Nhiều câu hỏi đặt ra: liệu đồng tính có phải là bệnh? Nếu là bệnh thì hẳn là có thuốc chữa? Tuy nhiên sau hàng thế kỷ tìm tòi, không nhà khoa học nào tìm ra vi khuẩn, virus hay ký sinh trùng gây bệnh. Câu trả lời chỉ chung chung: đó là xu hướng tình dục. Đến năm 1990, Tổ chức Y tế thế giới tuyên bố: Đồng tính không phải là bệnh. Không phải bệnh thì không cần phải chữa trị và tốt nhất là chấp nhận. Năm 1991, LeVay (Pháp) công bố trên tạp chí Science rằng ông phát hiện ra tế bào INAH3 ở trung khu sinh dục thuộc vùng dưới đồi (hypothalamus) trong cộng đồng gay có kích thước nhỏ hơn người dị tính từ 2-3 lần.
Ông cho rằng việc có ít tế bào INAH3 đã tạo ra xu thế tình dục đồng giới. Năm 1993, Hammer (Mỹ) tìm ra một đoạn nằm trên nhiễm sắc thể X có liên quan đến xu hướng tình dục đồng giới. Ông và cộng sự đưa ra giả thuyết rằng: xu hướng tình dục đồng giới được di truyền từ mẹ. Tiến sĩ Niklas Lngstrôm thuộc Viện Nghiên cứu Karolinska Institutet (Thụy Điển) và cộng sự đã thực hiện cuộc khảo sát 3.826 cặp sinh đôi nam cùng giới, hỏi về số bạn tình cùng giới và khác giới. Ông công bố rằng: gien di truyền chiếm 35% nhưng nhân tố môi trường chiếm tới 64%. Nói cách khác, nam giới bị đồng tính là do nhiều con đường khác nhau, trong đó môi trường làm việc, loại hình thần kinh “nghệ sĩ” dễ lay động giới tính nhất. Tiến sĩ Andre Brie Kaqilaman (Australia) khảo sát 4.000 cặp song sinh nữ và nói: “Chúng tôi tin rằng yếu tố môi trường và di truyền lái sự phát triển của xu hướng tình dục…”.
Theo các nhà khoa học thì xu hướng tình dục hình thành rất sớm, có thể ngay từ trong bào thai, ra đời lại chịu tác động qua lại của các yếu tố sinh học, tâm lý và xã hội. Sinh học là yếu tố chúng ta không thay đổi được, nếu mầm mống đồng tính đã nằm trong gien di truyền. Vì thế những gia đình có con thuộc giới tính thứ ba nên chấp nhận, chả nên vật vã tìm kiếm khả năng chữa trị làm gì. Một loại mà ta hay gọi là đua đòi, thấy các cặp đồng tính được chú ý nên cũng muốn “chơi nổi”, bắt chước vào cuộc một cách tự nguyện, nhưng chỉ thời gian rồi lại trở về với bản chất dị tính.
Nhóm khác tham gia cộng đồng đồng tính vì mục tiêu vụ lợi, được bao bọc về vật chất, một mặt vẫn cặp với người dị tính. Ghen tuông, giết nhau thường xảy ra ở nhóm này. Xin lưu ý quí vị rằng: Có những cặp chơi với nhau thân thiết, hoàn toàn không có vụ tình dục dính vào, nhưng người lớn nghe đồn đồng tính thì cứ rối lên, gán rằng “biến thái” dù chẳng hiểu biến thái là gì. Có hai yếu tố để khẳng định một người thuộc giới tính thứ ba: một là xu thế tình dục đồng giới ở mức không thể cưỡng lại được. Thứ hai là xu thế này xuất hiện sau khi dậy thì, khi trung khu sinh dục bắt đầu đi vào hoạt động.
Yếu tố môi trường ảnh hưởng đến quá trình hình thành thiên hướng tình dục đã được nghiên cứu. Tuy nhiên, không có nguyên nhân đơn lẻ nào trong quá trình hình thành thiên hướng tình dục từng được chứng minh. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng cả hai yếu tố sinh học và yếu tố môi trường đều có những ảnh hưởng phức tạp đối với việc hình thành đồng tính, song tính. Viện Nhi khoa Hoa Kỳ và Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ đều khẳng định rằng có nhiều nguyên nhân hình thành nên thiên hướng tình dục.
Vài nhà khoa học xếp yếu tố hoócmôn bào thai là một dạng yếu tố môi trường trong khi một số nhà khoa học khác thì phân biệt hai yếu tố này.
ĐỊNH HƯỚNG TÌNH DỤC BÊN CẠNH BẢN SẮC ĐỊNH HƯỚNG TÍNH DỤC CỦA BẢN THÂN
Trung tâm cai nghiện và sức khỏe tâm thần Mỹ cho rằng, “Đối với một số người, khuynh hướng tình dục là liên tục và cố định trong suốt cuộc đời của họ. Đối với những người khác, khuynh hướng tình dục có thể mềm dẻo và thay đổi theo thời gian.” Tuy vậy Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ, lại cho rằng “Tìm kiếm định hướng tình dục của bản thân- chứ không phải định hướng tính dục – thường xuyên thay đổi thông qua liệu pháp tâm lý, các nhóm hỗ trợ, và các sự kiện trong cuộc sống.” Thông thường, xu hướng tình dục và bản sắc khuynh hướng tình dục là không phân biệt, điều này có thể tác động đến việc đánh giá chính xác khuynh hướng tình dục và định hướng tình dục có thể thay đổi hay không; định hướng tình dục có thể thay đổi trong suốt cuộc đời của một cá nhân, và có thể hoặc có thể không phù hợp với giới tính sinh học, hành vi tình dục hoặc khuynh hướng tình dục thực sự. Học giả Lisa Diamond, khi xem xét nghiên cứu về xác định tình dục đồng tính nữ và lưỡng tính, nói rằng nghiên cứu cho thấy “thay đổi và tính mềm dẻo trong tình dục đồng giới mâu thuẫn với mô hình thông thường của khuynh hướng tình dục như một đặc điểm cố định và thống nhất được định hình từ giai đoạn đầu phát triển.”
KHÔNG PHÙ HỢP GIỚI TÍNH THỜI THƠ ẤU
Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng không phù hợp giới tính thời thơ ấu (childhood gender nonconformity) là yếu tố tiên đoán tốt nhất đồng tính luyến ái ở người lớn.Daryl Bem đề xuất rằng vài trẻ em thích các hoạt động tiêu biểu của giới tính đối lập. Các trẻ phù hợp giới tính cảm thấy khác với những trẻ có giới tính đối lập với mình trong khi những trẻ không phù hợp giới tính lại cảm thấy khác với những trẻ cùng giới tính với mình. Do đó trẻ có thể cảm thấy bị kích thích sinh lý khi gần người mà trẻ cho là “khác” với mình. Những kích thích sinh lý này sau đó sẽ chuyển thành ham muốn tình dục. Các nhà nghiên cứu cho rằng sự không phù hợp giới tính từ nhỏ có thể là do kiểu gen, hoócmôn giai đoạn bào thai, cá tính, cách chăm sóc của cha mẹ và các yếu tố môi trường khác.
Peter Bearman chỉ ra rằng trẻ trai sinh đôi cùng với một trẻ gái có khả năng bị hấp dẫn cùng giới gấp hai lần trừ khi trẻ có thêm một người anh. Ông ta nói sự phát hiện này đã ủng hộ giả thuyết rằng hòa nhập theo giới tính (gender socialization) kém thời thơ ấu và thiếu niên sẽ hình thành sự ưa thích tình cảm đồng giới. Ông đề xuất rằng cha mẹ của những cặp sinh đôi nam nữ thường đối xử trung tính với chúng, song một người anh trai nếu có sẽ giúp hình thành cơ chế hòa nhập theo giới tính để người em trai bắt chước theo.Tuy nhiên, Bearman và Bruckner không tìm thấy bằng chứng trực tiếp về việc xã hội ảnh hưởng đến khuynh hướng lựa chọn giới tính tình dục.Trong thực tế, không có bằng chứng nào cho thấy liên kết xã hội hoá giới tính của cha mẹ ảnh hưởng đến khuynh hướng tình dục của con cái của họ trong khi một số nghiên cứu trên các trẻ sinh đôi đã cho thấy gần như tất cả các sự giống nhau trong gia đình được quan sát cho thấy khuynh hướng tình dục là do gen, không phải môi trường gia đình.Tỷ lệ thanh thiếu niên báo cáo có hấp dẫn với người đồng tính là cao hơn so với tỷ lệ báo cáo có kinh nghiệm tình dục đồng tính thực sự. Ngoài việc hấp dẫn giới tính, cơ hội quan hệ tình dục cũng cần thiết. Do cơ hội quan hệ tình dục phụ thuộc nhiều vào cấu trúc xã hội, ảnh hưởng xã hội được cho rằng đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc cụ thể hóa hành vi tình dục hơn là hấp dẫn đồng tính đơn thuần.
ẢNH HƯỞNG TỪ GIA ĐÌNH
Các nhà nghiên cứu có bằng chứng cho thấy người đồng tính nam có người cha ít yêu thương và ít quan tâm hơn đồng thời thân thiết với mẹ hơn là người nam không đồng tính. Họ cho rằng từ điều này có thể kết luận rằng yếu tố gia đình thời thơ ấu là nhân tố quan trọng của đồng tính luyến ái hoặc cha mẹ cố tình đối xử với con như vậy để sửa một đặc tính về mặt giới tính nào đó của con. Michael Ruse cho rằng cả hai khả năng trên là đúng trong nhiều trường hợp khác nhau.
Theo một nghiên cứu đối với 275 người nam trong quân đội Đài Loan, Shu và Lung kết luận rằng “sự ít bảo bọc của người cha và sự quan tâm của người mẹ là nhân tố chính hình thành sự đồng tính ở nam giới”. Những yếu tố chính hình thành đồng tính luyến ái là “sự ít gắn bó với người cha, cuộc sống nội tâm và đặc thù thần kinh”. Một nghiên cứu báo cáo rằng người đồng tính nam sớm thân thiết với mẹ hơn những người đồng tính nữ. Một nghiên cứu năm 2000 đối với các cặp sinh đôi người Mỹ cho thấy yếu tố gia đình, ít nhất là một phần của kiểu gen, ảnh hưởng đến thiên hướng tình dục.
Có nghiên cứu cho thấy người đồng tính nam có nhiều đáng kể anh chị em hơn người đồng tính nữ. Người đồng tính nữ có nhiều đáng kể anh chị em hơn người nam dị tính. Một nghiên cứu năm 2006 ở Đan Mạch so sánh những người kết hôn đồng tính và những người kết hôn dị tính. Người kết hôn dị tính thường có cha mẹ trẻ, cha mẹ chênh lệch ít tuổi, có mối quan hệ ổn định với cha mẹ, large sibships và là em trong gia đình. Những người có cha mẹ ly hôn thường ít kết hôn dị tính hơn những người có cha mẹ hạnh phúc. Người nam kết hôn đồng tính thường có mẹ lớn tuổi, cha mẹ ly hôn, cha đi vắng hoặc là con út. Người nữ kết hôn đồng tính thường mồ côi mẹ ở tuổi thanh niên, là con một hay con út hoặc con gái duy nhất trong gia đình.
CON NUÔI CỦA CẶP ĐỒNG TÍNH
Các nghiên cứu của nhiều nhà khoa học như Kirk Patrick, Susan Golombok, Ann Spencer, Michael Rutter, Richard Green… cho biết: Khi nghiên cứu các cặp sinh đôi và con nuôi của các cặp đồng tính nữ, bằng chứng cho thấy thiên hướng tình dục là kết quả tác động phức tạp từ cả yếu tố sinh học và yếu tố môi trường và sự nuôi dạy. Các nghiên cứu này đã tìm thấy sự liên hệ về việc phát triển thiên hướng tình dục của trẻ em theo chiều hướng tương tự như cha mẹ nuôi của chúng, có nghĩa là nếu cha mẹ nuôi là người đồng tính thì khả năng đứa trẻ có hành vi đồng tính sẽ tăng lên.
Một nghiên cứu mới vào năm 2012 của Mark Regnerus, giáo sư tại Đại học Texas được đăng trên Tạp chí nghiên cứu xã hội Hoa Kỳ đã cung cấp thêm nhiều thông tin về vấn đề này. Nghiên cứu khảo sát 15.000 thanh niên, khảo sát kỹ 3.000 thanh niên trong đó 175 được nuôi lớn bởi người đồng tính nữ và 73 bởi người đồng tính nam. Kết quả cho thấy: trong ngắn hạn, các cặp đồng tính có thể nuôi con tốt như vợ chồng thông thường; nhưng về dài hạn, sự khiếm khuyết về giới tính (thiếu vắng cha hoặc mẹ để nuôi dạy đứa trẻ) là không thể khắc phục được, và con nuôi của họ khi bước vào tuổi thành niên sẽ có tỷ lệ quan hệ đồng tính cao hơn, cụ thể:
Nghiên cứu trên của Mark Regnerus nhận được sự ủng hộ của Trường Cao đẳng nhi khoa Hoa Kỳ, một tổ chức quốc gia của các bác sĩ nhi khoa và các chuyên gia chăm sóc sức khỏe và giáo dục dành cho trẻ em. Hội đồng Nghiên cứu gia đình Hoa Kỳ đã có bài phân tích ủng hộ nghiên cứu và cho biết: nhờ mẫu thống kê lớn nên nghiên cứu này có ý nghĩa rất quan trọng cho biết về tình trạng của trẻ em trong gia đình đồng tính về dài hạn, cũng như bản chất “bất ổn định” của cặp đồng tính. Nghiên cứu này đã xóa tan những ngộ nhận về việc “cha mẹ đồng tính không khác cha mẹ thường”. Kết quả của nó tương đồng với nghiên cứu của các chuyên gia nghiên cứu chính sách gia đình, và không có gì đáng ngạc nhiên khi nghiên cứu này bị tấn công quyết liệt các nhà hoạt động ủng hộ đồng tính
Mặt khác, trong cuốn sách “Lớn lên trong một gia đình đồng tính nữ: Tác động với sự phát triển trẻ em”, 2 tiến sĩ Fiona Tasker và Susan Golombok, quan sát thấy rằng 25% những thanh niên được nuôi bởi các bà mẹ đồng tính cũng đã tham gia vào một mối quan hệ đồng tính, so với xấp xỉ 0% ở những thanh niên được nuôi bởi các bà mẹ bình thường
Tiến sĩ Trayce Hansen cho biết: “Nghiên cứu của các nhà khoa học xã hội, mặc dù không dứt khoát, cho thấy rằng trẻ em nuôi bởi các cặp đồng tính có nhiều khả năng tham gia vào các hành vi đồng tính hơn so với các trẻ em khác. Các nghiên cứu cho đến nay cho thấy khoảng 8% đến 21% con nuôi của các cặp đồng tính cuối cùng cũng sẽ trở thành đồng tính. Để so sánh, tạm cho khoảng 2% dân số nói chung là đồng tính. Do đó, nếu các tỷ lệ này được xác minh kĩ, con nuôi của các cặp đồng tính có khả năng phát triển thành đồng tính cao hơn 4 đến 10 lần so với những đứa trẻ khác.”
SỐ LƯỢNG ANH TRAI
Số lượng anh trai và thiên hướng tình dục
Theo nhiều nhiên cứu, có thêm một người anh trai sẽ tăng khả năng là đồng tính lên 28%–48%.Hiệu ứng anh trai chiếm khoảng 1/7 trong số người đồng tính nam.Không có sự tương quan giữa số chị gái và sự đồng tính của một người nữ.
MÔI TRƯỜNG VĂN HÓA, XÃ HỘI
Tổ chức tình dục xã hội (Social Organization of Sexuality) ở Hoa Kỳ phát hiện đồng tính luyến ái có tương quan với sự đô thị hóa của nơi ở của đối tượng lúc 14 tuổi. Sự tương quan ở nam cao hơn ở nữ. Các tác giả giả thuyết rằng “Ở các thành phố lớn có một môi trường thông cảm đối với sự hình thành và thể hiện mối quan hệ đồng tính”.
Ở Đan Mạch, người sinh ra ở khu vực thủ đô có khả năng kết hôn dị tính thấp hơn và khả năng kết hôn đồng tính cao hơn người đồng trang lứa ở thôn quê.
Khuôn mẫu tình dục của mỗi cá nhân là một sản phẩm của văn hóa xã hội. Những xã hội có xu hướng chấp nhận đồng tính thì sẽ có nhiều cá nhân có khuynh hướng đồng tính hơn. Tại Mỹ, đã có sự gia tăng số phụ nữ cảm thấy thu hút đồng tính. Nhà nghiên cứu Binnie Klein cho rằng “rõ ràng là một sự thay đổi trong xu hướng tình dục trong tâm trí nhiều người hơn hơn bao giờ hết, và có nhiều cơ hội hơn – và sự chấp nhận – để vượt qua làn ranh (về giới tính)”. Toni Meyer, nhà nghiên cứu cao cấp của Hội đồng Chính sách gia đình bang New Jersey (Mỹ), cho biết: cùng với phong trào ủng hộ đồng tính lên cao, từ năm 1994, số đồng tính nam (ở Mỹ) đã tăng 18%, và số lượng đồng tính nữ còn tăng tới 157%. Điều này cho thấy những yếu tố văn hóa có tác động mạnh mẽ trong việc khuyến khích các hành vi đồng tính, và ít nhất là gián tiếp, làm suy yếu toàn bộ lý thuyết về việc “đồng tính là bẩm sinh”.
CHẤN THƯƠNG TÂM LÝ
Việc bị chấn thương tâm lý do bị lạm dụng tình dục cũng là một yếu tố. Một nghiên cứu trong Tạp chí Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ phát hiện ra rằng “vị thành niên bị lạm dụng tình dục, đặc biệt là nam giới, có khả năng tự nhận mình là người đồng tính hay song tính cao gấp 7 lần so với những người không bị lạm dụng” .Một nghiên cứu khác cho thấy rằng “46% nam đồng tính so với 7% của nam dị tính báo cáo rằng đã bị lạm dụng tình dục. Con số này tương ứng là 20% trong số đồng tính nữ so với 1% ở nữ dị tính”.” .Sigmund Freud và các nhà tâm lý học khác xác nhận rằng sự hình thành thiên hướng tình dục do nhiều nhân tố, trong đó có các sự việc quá khứ xảy ra trong thời thơ ấu. Tiến sĩ tâm lý học nổi tiếng người Tây Ban Nha là Enrique Rojas thì cho rằng: 95% nguyên nhân dẫn tới đồng tính là do các yếu tố môi trường như sự thiếu vắng quan tâm của người cha, người mẹ hung dữ hoặc bị lạm dụng tình dục trong thời thơ ấu.
Tóm lại: Xu hướng tình dục là thuật ngữ dùng để chỉ cảm xúc, tình cảm, sự thu hút của con người với các đối tượng ở giới tính cụ thể. Xu hướng tình dục được hình thành trong quá trình trưởng thành. Thông thường một người sẽ xác định được xu hướng tình dục của mình trong giai đoạn dậy thì.
Tham khảo
- ^ American Psychological Association Answers to Your Questions For a Better Understanding of Sexual Orientation & Homosexuality –
There is no consensus among scientists about the exact reasons that an individual develops a heterosexual, bisexual, gay, or lesbian orientation. Although much research has examined the possible genetic, hormonal, developmental, social, and cultural influences on sexual orientation, no findings have emerged that permit scientists to conclude that sexual orientation is determined by any particular factor or factors. Many think that nature and nurture both play complex roles; most people experience little or no sense of choice about their sexual orientation.
- ^ “Gay, Lesbian and Bisexual Issues”. Association of Gay and Lesbian Psychiatrics. Tháng 5 năm 2000.
No one knows what causes heterosexuality, homosexuality, or bisexuality…. there is a renewed interest in searching for biological etiologies for homosexuality. However, to date there are no replicated scientific studies supporting any specific biological etiology for homosexuality.
- ^ a ă “Sexual Orientation and Adolescents” (PDF), American Academy of Pediatrics Clinical Report, truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2007
- ^ “Answers to Your Questions About Sexual Orientation and Homosexuality”, American Psychological Association, truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2007
- ^ Långström, Niklas; Qazi Rahman, Eva Carlström, Paul Lichtenstein. (7 June 2008). “Genetic and Environmental Effects on Same-sex Sexual Behaviour: A Population Study of Twins in Sweden”. Archives of Sexual Behavior (Archives of Sexual Behaviour). PMID 18536986. doi:10.1007/s10508-008-9386-1.Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
- ^ “Question A2: Sexual orientation”. Centre for Addiction and Mental Health. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2015.
- ^ “Appropriate Therapeutic Responses to Sexual Orientation” (PDF). American Psychological Association. 2009. tr. 63, 86. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2015.
- ^ Sinclair, Karen, About Whoever: The Social Imprint on Identity and Orientation, NY, 2013 ISBN 9780981450513
- ^ Rosario, M., Schrimshaw, E., Hunter, J., & Braun, L. (2006, February).
- ^ Ross, Michael W.; Essien, E. James; Williams, Mark L.; Fernandez-Esquer, Maria Eugenia. (2003). “Concordance Between Sexual Behavior and Sexual Identity in Street Outreach Samples of Four Racial/Ethnic Groups”. Sexually Transmitted Diseases (American Sexually Transmitted Diseases Association) 30 (2): 110–113. PMID 12567166. doi:10.1097/00007435-200302000-00003.
- ^ Diamond, Lisa (2003). “Was it a phase? Young women’s relinquishment of lesbian/bisexual identities over a 5-year period” (PDF). Journal of Personality and Social Psychology 84 (2): 352–364. PMID 12585809. doi:10.1037/0022-3514.84.2.352.
- ^ a ă â Bearman, Peter; Brückner, Hannah (2002). “Opposite-sex twins and adolescent same-sex attraction” (PDF) 107. American Journal of Sociology. tr. 1179–1205.
- ^ Bem, Daryl (11 tháng 10 năm 2008). “Is There a Causal Link Between Childhood Gender Nonconformity and Adult Homosexuality?”. Journal of Gay & Lesbian Mental Health 12 (1-2): 61–79. doi:10.1300/J529v12n01_05. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2014.
- ^ Rieger G, Linsenmeier JA, Gygax L, Bailey JM (tháng 1 năm 2008). “Sexual orientation and childhood gender nonconformity: evidence from home videos”. Dev Psychol 44 (1): 46–58. PMID 18194004. doi:10.1037/0012-1649.44.1.46.
- ^ Bailey, J.M.; Zucker, K.J (1995). “Childhood sex-typed behavior and sexual orientation: A conceptual analysis and quantitative review”. Developmental Psychology 31 (1): 43–55. doi:10.1037/0012-1649.31.1.43.
- ^ a ă â Jacob Felson (2011). “The Effect of Religious Background on Sexual Orientation”. Interdisciplinary Journal of Research on Religion 7. ISSN 1556-3723.
- ^ Kendler KS; Thornton LM; Gilman SE; Kessler RC (2000). “Sexual orientation in a U.S. national sample of twin and nontwin sibling pairs”. Am J Psychiatry 157 (11): 1843–6. PMID 11058483. doi:10.1176/appi.ajp.157.11.1843.
- ^ Bell, Weinberg, & Parks, 1981; Bieber et al., 1962; Braatan & Darling, 1965; Brown, 1963; Evans, 1969; Jonas, 1944; Millic & Crowne, 1986; Nicolosi, 1991; Phelan, 1993; Biggio, 1973; Seutter & Rovers, 2004; Siegelman, 1974; Snortum, 1969; Socarides, 1978; West, 1959).
- ^ a ă â Frisch M, Hviid A (tháng 10 năm 2006). “Childhood family correlates of heterosexual and homosexual marriages: a national cohort study of two million Danes”. Arch Sex Behav 35 (5): 533–47. PMID 17039403. doi:10.1007/s10508-006-9062-2.
- ^ Isay, Richard A. (1990). Being homosexual: Gay men and their development. HarperCollins. ISBN 0380710226.
- ^ Isay, Richard A. (1996). Becoming gay: The journey to self-acceptance. New York, Pantheon. ISBN 0679421599.
- ^ Ruse, Michael Homosexuality: a philosophical inquiry (1988) ISBN 0-631-17553-9
- ^ Lung, F.W. (2007). “Father-son attachment and sexual partner orientation in Taiwan”. Comprehensive Psychiatry 48: 20–6. doi:10.1016/j.comppsych.2006.08.001.
- ^ Ridge SR, Feeney JA (tháng 12 năm 1998). “Relationship history and relationship attitudes in gay males and lesbians: attachment style and gender differences”. Aust N Z J Psychiatry 32 (6): 848–59. PMID 10084350. doi:10.3109/00048679809073875.
- ^ Kendler KS, Thornton LM, Gilman SE, Kessler RC (tháng 11 năm 2000). “Sexual orientation in a U.S. national sample of twin and nontwin sibling pairs”. Am J Psychiatry 157 (11): 1843–6. PMID 11058483. doi:10.1176/appi.ajp.157.11.1843.
- ^ Bogaert AF (tháng 2 năm 2005). “Sibling sex ratio and sexual orientation in men and women: new tests in two national probability samples”. Arch Sex Behav 34 (1): 111–6. PMID 15772774. doi:10.1007/s10508-005-1005-9.
- ^ Kirk Patrick M, Smith C, Roy R (tháng 7 năm 1981). “Lesbian mothers and their children: a comparative survey”. Am J Orthopsychiatry 51 (3): 545–51. PMID 7258320.
- ^ Susan Golombok, Ann Spencer and Michael Rutter (tháng 10 năm 1983). “Children in lesbian and single-parent households: psychosexual and psychiatric appraisal”. J Child Psychol Psychiatry 24 (4): 551–72. PMID 6630329. doi:10.1111/j.1469-7610.1983.tb00132.x.
- ^ Green R, Mandel JB, Hotvedt ME, Gray J, Smith L (tháng 4 năm 1986). “Lesbian mothers and their children: a comparison with solo parent heterosexual mothers and their children”. Arch Sex Behav 15 (2): 167–84. PMID 3718205. doi:10.1007/BF01542224.
- ^ http://www.baylorisr.org/wp-content/uploads/Regnerus.pdf
- ^ Sprigg, Peter. “Family Research Council”. Frc.org. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
- ^ Growing up in a lesbian family: effects on child development. Fiona L. Tasker, Susan Golombok. Guilford Press, 1997. ISBN 1-57230-412-X. P 111
- ^ Blanchard, R., Zucker, K.J., Siegelman, M., Dickey, R. & Klassen, P. (1998). The relation of birth order to sexual orientation in men and women. Journal of Biosocial Science, 30, 511-519.
- ^ Ellis, L. & Blanchard, R. (2001). Birth order, sibling sex ratio, and maternal miscarriages in homosexual and heterosexual men and women. Personality and Individual Differences, 30, 543-552.
- ^ Blanchard, R. (2001). Fraternal birth order and the maternal immune hypothesis of male homosexuality. Hormones and Behavior, 40, 105-114.
- ^ Puts, D. A., Jordan, C. L., Breedlove, M. (2006). O brother, where art thou? The fraternal birth-order effect on male sexual orientation. Proceedings of the National Academy of Sciences USA, 103, 10531-10532.
- ^ Cantor, J. M., Blanchard, R., Paterson, A. D., & Bogaert, A. F. (2002). How many gay men owe their sexual orientation to fraternal birth order. Archives of Sexual Behavior, 31, 63-71.
- ^ Bogaert, A. F. (2005) Sibling sex ratio and sexual orientation in men and women: New tests in two national probability samples. Archives of Sexual Behavior, 34, 111-116.
- ^ Laumann, Edward O.; John H. Gagnon, Robert T. Michael, Stuart Michaels (1994). The Social Organization of Sexuality: Sexual Practices in the United States. tr. 308. ISBN 0226469573, 9780226469577 Kiểm tra giá trị |isbn= (trợ giúp).
- ^ Laumann, Edward; Michael, Robert; Kolata, Gina (ngày 1 tháng 9 năm 1995). Sex in America: A Definitive Survey. Grand Central Publishing. ISBN 978-0446671835.
- ^
[ad_2]
Source link