[ad_1]
Chúng ta thường dùng từ đồng tính hay giới tính thứ ba để chỉ những người có quan hệ yêu đương và tình dục đồng giới. Đồng tính nam gọi là gay, đồng tính nữ gọi là lesbian (les).
Dù cộng giới tính thứ ba chỉ chiếm 3 – 5% dân số, họ là những người làm việc bình thường, có đóng góp cho xã hội, có cảm xúc, muốn được yêu đương nhưng thường bị những người dị tính (quan hệ yêu đương bình thường) coi thường, xa lánh… Nếu chúng ta có cái nhìn đúng đắn hơn, sẽ giúp họ dễ dàng hòa nhập, không cần che giấu; còn ngược lại thì họ phải rút vào bí mật và luôn tự ti, mặc cảm.
Hầu hết các bậc cha mẹ đều sốc, không muốn chấp nhận sự thật. Bản thân các bạn ấy cũng thấy mình “khác người”, lo lắng sẽ bị kỳ thị. Tại sao vậy? Viện nghiên cứu kinh tế – xã hội và môi trường (ISEE) khảo sát trực tuyến trên 3.200 người đồng tính nam tại VN cho thấy: 20% đồng tính nam bị bạn bè bỏ rơi; 15% bị cha mẹ chửi mắng, đánh đập; 95% nghe nói đồng tính là cho rằng họ không bình thường, là “biến thái”. Vì thế 86% đồng tính nam phải che giấu xu hướng tình dục, 7% cưới vợ để làm bình phong hoặc để làm vừa lòng cha mẹ. Có nhiều người bàn luận hoặc kể chuyện tiếu lâm hàm ý coi thường người đồng tính. Chính lối nghĩ, phản ứng như vậy làm tổn thương tâm lý, sức khỏe; lại thêm cha mẹ chửi mắng, đánh đập có thể dẫn đến nguy cơ họ tự tử hay sa vào ma túy. Chúng ta thường quen nếp nghĩ: những gì của số đông, thuộc về số đông mới là đúng, là qui luật, vì thế nên có thành kiến với người đồng tính bởi họ không thuộc về số đông.
Do đâu?
Nhiều câu hỏi đặt ra: liệu đồng tính có phải là bệnh? Nếu là bệnh thì hẳn là có thuốc chữa? Tuy nhiên sau hàng thế kỷ tìm tòi, không nhà khoa học nào tìm ra vi khuẩn, virus hay ký sinh trùng gây bệnh. Câu trả lời chỉ chung chung: đó là xu hướng tình dục. Đến năm 1990, Tổ chức Y tế thế giới tuyên bố: Đồng tính không phải là bệnh. Không phải bệnh thì không cần phải chữa trị và tốt nhất là chấp nhận. Năm 1991, LeVay (Pháp) công bố trên tạp chí Science rằng ông phát hiện ra tế bào INAH3 ở trung khu sinh dục thuộc vùng dưới đồi (hypothalamus) trong cộng đồng gay có kích thước nhỏ hơn người dị tính từ 2-3 lần.
Ông cho rằng việc có ít tế bào INAH3 đã tạo ra xu thế tình dục đồng giới. Năm 1993, Hammer (Mỹ) tìm ra một đoạn nằm trên nhiễm sắc thể X có liên quan đến xu hướng tình dục đồng giới. Ông và cộng sự đưa ra giả thuyết rằng: xu hướng tình dục đồng giới được di truyền từ mẹ. Tiến sĩ Niklas Lngstrôm thuộc Viện Nghiên cứu Karolinska Institutet (Thụy Điển) và cộng sự đã thực hiện cuộc khảo sát 3.826 cặp sinh đôi nam cùng giới, hỏi về số bạn tình cùng giới và khác giới. Ông công bố rằng: gien di truyền chiếm 35% nhưng nhân tố môi trường chiếm tới 64%. Nói cách khác, nam giới bị đồng tính là do nhiều con đường khác nhau, trong đó môi trường làm việc, loại hình thần kinh “nghệ sĩ” dễ lay động giới tính nhất. Tiến sĩ Andre Brie Kaqilaman (Australia) khảo sát 4.000 cặp song sinh nữ và nói: “Chúng tôi tin rằng yếu tố môi trường và di truyền lái sự phát triển của xu hướng tình dục…”.
Theo các nhà khoa học thì xu hướng tình dục hình thành rất sớm, có thể ngay từ trong bào thai, ra đời lại chịu tác động qua lại của các yếu tố sinh học, tâm lý và xã hội. Sinh học là yếu tố chúng ta không thay đổi được, nếu mầm mống đồng tính đã nằm trong gien di truyền. Vì thế những gia đình có con thuộc giới tính thứ ba nên chấp nhận, chả nên vật vã tìm kiếm khả năng chữa trị làm gì. Một loại mà ta hay gọi là đua đòi, thấy các cặp đồng tính được chú ý nên cũng muốn “chơi nổi”, bắt chước vào cuộc một cách tự nguyện, nhưng chỉ thời gian rồi lại trở về với bản chất dị tính.
Nhóm khác tham gia cộng đồng đồng tính vì mục tiêu vụ lợi, được bao bọc về vật chất, một mặt vẫn cặp với người dị tính. Ghen tuông, giết nhau thường xảy ra ở nhóm này. Xin lưu ý quí vị rằng: Có những cặp chơi với nhau thân thiết, hoàn toàn không có vụ tình dục dính vào, nhưng người lớn nghe đồn đồng tính thì cứ rối lên, gán rằng “biến thái” dù chẳng hiểu biến thái là gì. Có hai yếu tố để khẳng định một người thuộc giới tính thứ ba: một là xu thế tình dục đồng giới ở mức không thể cưỡng lại được. Thứ hai là xu thế này xuất hiện sau khi dậy thì, khi trung khu sinh dục bắt đầu đi vào hoạt động.
Yếu tố sinh học ảnh hưởng đến quá trình hình thành thiên hướng tình dục đã được nghiên cứu. Không có nguyên nhân đơn lẻ nào trong quá trình hình thành thiên hướng tình dục từng được chứng minh và cũng chưa có sự thống nhất là yếu tố sinh học hay yếu tố môi trường là chính. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng cả hai yếu tố đều có những ảnh hưởng phức tạp. Viện Nhi khoa Hoa Kỳ và Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ đều khẳng định rằng có nhiều nguyên nhân hình thành thiên hướng tình dục. Nhiều yếu tố sinh học được xác định bao gồm kiểu gen, hoocmon bào thai và cấu trúc não bộ. Việc kết luận một yếu tố sinh học nào đó là nguyên nhân ảnh hưởng đến thiên hướng tình dục có ý nghĩa chính trị và văn hóa quan trọng.
NGHIÊN CỨU VỀ CÁC CẶP SINH ĐÔI
Thông thường nghiên cứu các cặp sinh đôi để phân biệt các ảnh hưởng của môi trường và ảnh hưởng khác. Cách làm thường là ghi nhận các cặp sinh đôi cùng trứng có cùng đặc điểm nào đó và các cặp sinh đôi khác trứng cũng có cùng đặc điểm đó hay không. Vì theo lý thuyết, hai người sinh đôi cùng trứng có cùng kiểu gen trong khi ở hai người sinh đôi khác trừng chỉ có 50% gen là giống nhau. Nếu có một tỉ lệ cao các cặp sinh đôi cùng trứng đều mắt một mí trong khi có một tỉ lệ thấp các cặp sinh đôi khác trứng cùng mắt một mí thì có thể kết luận mắt một mí là do gen. Nếu tỉ lệ các cặp sinh đôi cùng trứng và khác trứng có cùng đam mê âm nhạc là như nhau thì có thể kết luận đam mê âm nhạc không phải là do gen.
Năm 1991, Bailey và Pillard thực hiện một nghiên cứu cho thấy tỉ lệ hai người sinh đôi cùng trứng cùng đồng tính là 52%, tỉ lệ này ở sinh đôi khác trứng là 22%.[6] Năm 2000, Bailey, Dunne và Martin thực hiện thăm dò với 4.901 cặp sinh đôi Úc cho thấy tỉ lệ trên đối với sinh đôi cùng trứng là 30%.[7] Năm 2001, Hershberger so sánh kết quả của tám nghiên cứu khác nhau ở người song sinh[8] cho thấy tỉ lệ cùng thiên hướng tình dục ở sinh đôi cùng trứng khá cao hơn tỉ lệ ở sinh đôi khác trứng nên yếu tố kiểu gen đóng một vai trò đáng kể.
Tuy nhiên năm 2002, Bearman và Bruckner phân tích một dữ liệu không ủng hộ yếu tố kiểu gen: “Tỉ lệ cùng đồng tính ở sinh đôi cùng trứng là 6.7%, ở sinh đôi khác trứng là 7.2%, ở các cặp anh chị em bình thường là 5.5%. Rõ ràng, kết quả cho thấy sự giống nhau về thiên hướng tình dục không tương ứng với sự giống nhau về kiểu gen. Yếu tố kiểu gen nếu có thì nó đã bị các yếu tố khác lấn áp mạnh mẽ.” Họ kết luận rằng sự biểu hiện ham muốn đồng giới cần có một môi trường xã hội nào đó.[9]
Một nghiên cứu gần đây đối với tất cả các cặp song sinh trưởng thành ở Thụy Điển (hơn 7600 cặp) cho thấy hành vi đồng tính là do cả yếu tố kiểu gen và yếu tố môi trường cá nhân cụ thể (chẳng hạn như môi trường bào thai, bị bệnh hoặc chấn thương, những gì đã xảy ra trong tình dục) trong khi yếu tố môi trường xung quanh (chẳng hạn như quan hệ trong gia đình, thái độ xã hội) có tác động ít hơn. Theo thống kê, ở phụ nữ, yếu tố kiểu gen tác động ít đến thiên hướng tình dục của họ trong khi ở nam giới môi trường xung quanh không có tác động. Cuộc thống kê được thực hiện trên tất cả các cặp song sinh ở Thụy Điển là để giải đáp cho những chỉ trích rằng trong các cuộc thống kê trước những cặp song sinh cùng là đồng tính có xu hướng tham gia thăm dò nhiều hơn.
“
|
Môi trường của các cặp sinh đôi (bao gồm thái độ gia đình và xã hội) đóng vai trò 0-17% khi lựa chọn bạn tình, kiểu gen 18-39% và môi trường riêng (unique environment) 61-66%. Môi trường riêng của cá nhân bao gồm chẳng hạn như những sự việc xảy ra khi người mẹ mang thai và sinh đẻ, chấn thương cơ thể hoặc tâm lý (tai nạn, bạo hành, bệnh tật), bạn đồng trang lứa và những điều đã trải qua trong tình dục. Ở nam, kiểu gen đóng vai trò 34-39%, môi trường xung quanh 0%, môi trường riêng 61-66%. Ở nữ, kiểu gen đóng vai trò 18-19%, môi trường xung quanh 16-17%, môi trường riêng 64-66%.
|
”
|
Ngay cả hai người sinh đôi cùng trứng cũng có thể khác nhau và có những cơ chế có thể làm cho thiên hướng tình dục của họ khác nhau. Năm 2001, Gringas và Chen mô tả một số cơ chế có thể dẫn đến sự khác nhau của các cặp sinh đôi cùng trứng, cơ chế đáng quan tâm nhất là màng ối (chorionicity và amniocity).[11] Hai màng ối khác nhau có môi trường hoocmon khác nhau và nhận máu từ mẹ thông qua hai nhau thai khác nhau. Hai bào thai cùng một màng ối thì có chung môi trường hoocmon nhưng có thể xảy ra hội chứng truyền bào thai sang bào thai (twin to twin transfusion syndrome) khi đó “máu dồn vào một bào thai trong khi bào thai kia bị hút máu”. Nếu một bào thai nhận ít testosterone hơn thì sự hình thành một bộ não nam giới sẽ yếu hơn.
NGHIÊN CỨU NHIỄM SẮC THỂ
Năm 1993, Dean Hamer và đồng nghiệp công bố một phân tích trên 76 người đồng tính trong những nhóm bà con. Hamer và đồng sự thấy rằng người đồng tính nam có nhiều người bà con bên mẹ (cậu và anh em bạn dì) cũng là người đồng tính hơn là bà con bên cha. Những người bà con đồng tính nam bên mẹ này được phân tích nhiễm sắc thể X, dùng 22 đoạn trên nhiễm sắc thể X để kiểm tra các allele tương tự. Trong một phát hiện khác, 34 trong số 40 cặp anh chị em ruột được phân tích và thấy các allele tương tự ở đoạn xa của Xq28, cao hơn tỉ lệ allele tương tự 50% ở anh em trai. Việc nhiều người gán đây là gen đồng tính đã gây nhiều tranh cãi vì nó không chính xác.
NGHIÊN CỨU BIỂU SINH
Di truyền từ mẹ, số lượng anh trai và khả năng sinh sản của người mẹ
Nghiên cứu chất dẫn dụ
Cấu trúc não bộ
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC Ở NGƯỜI ĐỒNG TÍNH
Sinh lý
Những nghiên cứu gần đây phát hiện ra những khác biệt sinh lý đáng kể giữa người đồng tính và những người không phải đồng tính. Có bằng chứng cho thấy:
- Người đồng tính nam có não bộ tương tự phụ nữ dị tính và người đồng tính nữ có não bộ tương tự nam giới dị tính.
- Kích thước vùng INAH-3 trong não của người đồng tính nam gần bằng kích thước vùng INAH-3 của phụ nữ, nó nhỏ hơn đáng kể và tế bào tập trung dày đặc hơn vùng INAH-3 của não bộ nam giới dị tính.
- Vùng SCN (suprachiasmatic nucleus) của người đồng tính nam lớn hơn của người nam không đồng tính, thông thường vùng này của nam giới lớn của phụ nữ.[17]
- Thông thường các bó dây thần kinh anterior commissure của phụ nữ lớn hơn của đàn ông. Các bó này của người đồng tính nam lớn hơn của người nam không đồng tính.[18] Một nghiên cứu sau đó không tìm thấy điều này.[19]
- Theo thăm dò, dương vật người đồng tính nam dài hơn và có chu vi lớn hơn của người nam không đồng tính.[20]
- Não người đồng tính nam phản ứng khác người không đồng tính đối với chất fluoxetine.[21]
- Chức năng của tai trong và hệ thống nghe trung tâm ở người đồng tính nữ và song tính nữ giống ở đàn ông hơn là người nữ (các nhà nghiên cứu cho rằng điều này cũng thống nhất với giả thuyết hoocmon bào thai trong thiên hướng tình dục).[22]
- Phản ứng giật mình (chớp mắt khi nghe tiếng động lớn) ở người đồng tính và song tính nữ giống như nam giới.
- Ba vùng trong bộ não (vỏ não vùng trước trán, vùng mã ngư trái và hạch hạnh phải) ở người đồng tính nam thì hưng phấn hơn ở người nam không đồng tính khi xem các hình ảnh khiêu dâm.
- Người nam đồng tính và không đồng tính phát ra mùi nách khác nhau.
- Tóc người đồng tính nam thường quăn theo chiều ngược kim đồng hồ hơn.
- Não người đồng tính và không đồng tính phản ứng khác nhau đối với hai chất dẫn dụ (pheromone) tình dục người (AND, tiết ra từ nách đàn ông và EST, có trong nước tiểu phụ nữ).
- Tỉ lệ chiều dài ngón trỏ và ngón đeo nhẫn của phụ nữ đồng tính và không đồng tính khác nhau.
Nhận thức
Những nghiên cứu gần đây đưa ra những khác nhau nhỏ trong cách xử lý vài loại thông tin của người đồng tính và không đồng tính.
- Người đồng tính nam và nữ thường thuận tay trái hoặc thuận hai tay hơn người không đồng tính.
- Người nam/nữ đồng tính lưu loát hơn trong ngôn ngữ so với người nam/nữ không đồng tính tương ứng (hai nghiên cứu khác không thấy điều này).
- Người đồng tính nam có thể ghi điểm nhiều hơn người nam không đồng tính trong các bài kiểm tra trí nhớ vị trí đồ vật (không có sự khác nhau giữa phụ nữ đồng tính và không đồng tính).
Tóm lại: Xu hướng tình dục là thuật ngữ dùng để chỉ cảm xúc, tình cảm, sự thu hút của con người với các đối tượng ở giới tính cụ thể. Xu hướng tình dục được hình thành trong quá trình trưởng thành. Thông thường một người sẽ xác định được xu hướng tình dục của mình trong giai đoạn dậy thì.
Tham khảo
- ^ American Psychological Association Answers to Your Questions For a Better Understanding of Sexual Orientation & Homosexuality –
There is no consensus among scientists about the exact reasons that an individual develops a heterosexual, bisexual, gay, or lesbian orientation. Although much research has examined the possible genetic, hormonal, developmental, social, and cultural influences on sexual orientation, no findings have emerged that permit scientists to conclude that sexual orientation is determined by any particular factor or factors. Many think that nature and nurture both play complex roles; most people experience little or no sense of choice about their sexual orientation.
- ^ “Gay, Lesbian and Bisexual Issues”. Association of Gay and Lesbian Psychiatrics. Tháng 5 năm 2000.
No one knows what causes heterosexuality, homosexuality, or bisexuality…. there is a renewed interest in searching for biological etiologies for homosexuality. However, to date there are no replicated scientific studies supporting any specific biological etiology for homosexuality.
- ^ “Sexual Orientation and Adolescents” (PDF), American Academy of Pediatrics Clinical Report, truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2007
- ^ “Answers to Your Questions About Sexual Orientation and Homosexuality”, American Psychological Association, truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2007
- ^ LeVay, Simon (1996). Queer Science: The Use and Abuse of Research into Homosexuality. Cambridge: The MIT Press ISBN 0-262-12199-9
- ^ cited in Wilson and Rahman 2005, p47
- ^ Bailey JM, Dunne MP, Martin NG (tháng 3 năm 2000). “Genetic and environmental influences on sexual orientation and its correlates in an Australian twin sample”. J Pers Soc Psychol 78 (3): 524–36. PMID 10743878.
- ^ Hershberger, Scott L. 2001. Biological Factors in the Development of Sexual Orientation. Pp. 27-51 in Lesbian, Gay, and Bisexual Identities and Youth: Psychological Perspectives, edited by Anthony R. D’Augelli and Charlotte J. Patterson. Oxford, New York: Oxford University Press. Quoted in Bearman and Bruckner, 2002.
- ^ This work was published in the American Journal of Sociology (Bearman, P. S. & Bruckner, H. (2002) Opposite-sex twins and adolescent same-sex attraction. American Journal of Sociology 107, 1179–1205.) and is available only to subscribers. However, a final draft of the paper is available here – there are no significant differences on the points cited between the final draft and the published version.
- ^ Långström, Niklas; Qazi Rahman, Eva Carlström, Paul Lichtenstein. (7 June 2008). “Genetic and Environmental Effects on Same-sex Sexual Behaviour: A Population Study of Twins in Sweden”. Archives of Sexual Behaviour. doi:10.1007/s10508-008-9386-1. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
- ^ Gringas, P. and Chen, W. (2001). Mechanisms for difference in monozygous twins. Early Human Development, 64, (2), 105-117.
- ^ Rutter, M. (2006). Genes and Behavior. Oxford, UK: Blackwell Publishing.
- ^ Hamer DH, Hu S, Magnuson VL, Hu N, Pattatucci AM (tháng 7 năm 1993). “A linkage between DNA markers on the X chromosome and male sexual orientation”. Science (journal) 261 (5119): 321–7. PMID 8332896. doi:10.1126/science.8332896.
- ^ Scans see ‘gay brain differences’ – BBC News
- ^ LeVay S (1991). “A difference in hypothalamic structure between heterosexual and homosexual men”. Science 253 (5023): 1034–7. PMID 1887219. doi:10.1126/science.1887219.
- ^ http://www.dafml.unito.it/anatomy/panzica/pubblicazioni/pdf/1995PanzicaJEI.pdf
- ^ Swaab DF, Zhou JN, Ehlhart T, Hofman MA (1994). “Development of vasoactive intestinal polypeptide neurons in the human suprachiasmatic nucleus in relation to birth and sex”. Brain Res. Dev. Brain Res. 79(2): 249–59. PMID 7955323.
- ^ Allen LS, Gorski RA (1992). “Sexual orientation and the size of the anterior commissure in the human brain”. Proc. Natl. Acad. Sci. U.S.A. 89 (15): 7199–202. PMID 1496013.
- ^ Lasco, M. S., Jordan, T. J., Edgar, M. A., Petito, C. K., & Byne, W. (2002). A lack of dimorphism of sex or sexual orientation in the human anterior commissure. Brain Research, 936, 95–98.
- ^ Bogaert AF, Hershberger S (1999). “The relation between sexual orientation and penile size”. Arch Sex Behav 28 (3): 213–21. PMID 10410197. doi:10.1023/A:1018780108597.
- ^ Kinnunen LH, Moltz H, Metz J, Cooper M (2004). “Differential brain activation in exclusively homosexual and heterosexual men produced by the selective serotonin reuptake inhibitor, fluoxetine”. Brain Res. 1024 (1-2): 251–4. PMID 15451388. doi:10.1016/j.brainres.2004.07.070.
- ^ a ă McFadden D (2002). “Masculinization effects in the auditory system”. Arch Sex Behav 31 (1): 99–111. PMID 11910797. doi:10.1023/A:1014087319682.
- ^ Rahman Q, Kumari V, Wilson GD (2003). “Sexual orientation-related differences in prepulse inhibition of the human startle response”. Behav. Neurosci. 117 (5): 1096–102. PMID 14570558. doi:10.1037/0735-7044.117.5.1096.
- ^ Safron A, Barch B, Bailey JM, Gitelman DR, Parrish TB, Reber PJ (2007). “Neural correlates of sexual arousal in homosexual and heterosexual men”. Behav. Neurosci. 121 (2): 237–48. PMID 17469913. doi:10.1037/0735-7044.121.2.237.
- ^ Martins Y, Preti G, Crabtree CR, Runyan T, Vainius AA, Wysocki CJ (2005). “Preference for human body odors is influenced by gender and sexual orientation”. Psychol Sci 16 (9): 694–701. PMID 16137255. doi:10.1111/j.1467-9280.2005.01598.x.
- ^ “Sadhana” (PDF). Truy cập 7 tháng 11 năm 2015.
- ^ Savic I, Berglund H, Gulyas B, Roland P (2001). “Smelling of odorous sex hormone-like compounds causes sex-differentiated hypothalamic activations in humans”. Neuron 31 (4): 661–8. PMID 11545724. doi:10.1016/S0896-6273(01)00390-7.
- ^ Savic I, Berglund H, Lindström P (2005). “Brain response to putative pheromones in homosexual men”. Proc. Natl. Acad. Sci. U.S.A. 102 (20): 7356–61. PMID 15883379. doi:10.1073/pnas.0407998102.
- ^ Berglund H, Lindström P, Savic I (2006). “Brain response to putative pheromones in lesbian women”. Proc. Natl. Acad. Sci. U.S.A. 103 (21): 8269–74. PMID 16705035. doi:10.1073/pnas.0600331103.
- ^ Brown WM, Hines M, Fane BA, Breedlove SM (2002). “Masculinized finger length patterns in human males and females with congenital adrenal hyperplasia”. Horm Behav 42 (4): 380–6. PMID 12488105. doi:10.1006/hbeh.2002.1830.
- ^ Hines M, Johnston KJ, Golombok S, Rust J, Stevens M, Golding J (2002). “Prenatal stress and gender role behavior in girls and boys: a longitudinal, population study”. Horm Behav 42 (2): 126–34. PMID 12367566. doi:10.1006/hbeh.2002.1814.
- ^ Rahman Q, Wilson GD (2003). “Sexual orientation and the 2nd to 4th finger length ratio: evidence for organising effects of sex hormones or developmental instability?”. Psychoneuroendocrinology 28 (3): 288–303. PMID 12573297. doi:10.1016/S0306-4530(02)00022-7.
- ^ Brown WM, Finn CJ, Cooke BM, Breedlove SM (2002). “Differences in finger length ratios between self-identified “butch” and “femme” lesbians”. Arch Sex Behav 31 (1): 123–7. PMID 11910785. doi:10.1023/A:1014091420590.
- ^ Hall LS, Love CT (2003). “Finger-length ratios in female monozygotic twins discordant for sexual orientation”. Arch Sex Behav 32 (1): 23–8. PMID 12597269. doi:10.1023/A:1021837211630.
- ^ Lalumière ML, Blanchard R, Zucker KJ (2000). “Sexual orientation and handedness in men and women: a meta-analysis”. Psychol Bull 126 (4): 575–92. PMID 10900997.
- ^ Mustanski BS, Bailey JM, Kaspar S (2002). “Dermatoglyphics, handedness, sex, and sexual orientation”. Arch Sex Behav 31 (1): 113–22. PMID 11910784. doi:10.1023/A:1014039403752.
- ^ Lippa RA (2003). “Handedness, sexual orientation, and gender-related personality traits in men and women”. Arch Sex Behav 32 (2): 103–14. PMID 12710825. doi:10.1023/A:1022444223812.
- ^ Geoff Sanders, Ph.D. and Marian Wright, B.Sc.(1997), Sexual Orientation Differences in Cerebral Asymmetry and in the Performance of Sexually Dimorphic Cognitive and Motor Tasks
- ^ GSS data on verbal performance of homosexual, heterosexual, and bisexual males and females
- ^ McCormick CM, Witelson SF (1991). “A cognitive profile of homosexual men compared to heterosexual men and women”. Psychoneuroendocrinology 16 (6): 459–73. PMID 1811244.
- ^ Rahman Q, Abrahams S, Wilson GD (2003). “Sexual-orientation-related differences in verbal fluency”. Neuropsychology 17 (2): 240–6. PMID 12803429.
- ^ Gladue, B. A., W. W. Beatty, et al. (1990). “Sexual orientation and spatial ability in men and women.” Psychobiology 18: 101-108.
- ^ Neave N, Menaged M, Weightman DR (1999). “Sex differences in cognition: the role of testosterone and sexual orientation”. Brain Cogn 41 (3): 245–62. PMID 10585237. doi:10.1006/brcg.1999.1125.
- ^ Rahman Q, Wilson GD, Abrahams S (2003). “Sexual orientation related differences in spatial memory”. J Int Neuropsychol Soc 9 (3): 376–83. PMID 12666762. doi:10.1017/S1355617703930037.
Tổng hợp tài liệu tham khảo INTERNET.
https://www.facebook.com/phanhieutcmiendong
VIỆN CÔNG NGHỆ QUẢN TRỊ Á CHÂU – TS. NGUYỄN VĂN HÙNG
[ad_2]
Source link